Văn mẫu lớp 9

Đặng Thúy

dựa vào đoạn trích hoàng lê nhất thống trí em hãy viết bài văn kể lại cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua quang trung.

Rocker Alviss
6 tháng 6 2018 lúc 20:14

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dự định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyễn Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trại, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại an ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quân lệnh nghiêm minh, quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bụi đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quân tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi - Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 3 ngày, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thắng xông lên chém giết quân giặc, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.

Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.


Bình luận (0)
Ami Ngọc
6 tháng 6 2018 lúc 21:39

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp phải đối mặt những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần, không chỉ về lực lượng, vũ khí mà cả điều kiện chiến tranh. Nhưng, chưa một lần quân dân Việt Nam chịu khuất phục trước những sự đô hộ bạo tàn, áp bức tàn nhẫn ấy. TRong đời sống những người Việt Nam thuần nông, hiền hậu yêu thương tương trợ nhau trong hoạt động sản xuất. Nhưng khi chiến tranh xảy ra thì họ trở thành những người anh hùng với chí khí ngất trời, cùng với nhân dân khắp nơi đoàn kết lại thành một khối thống nhất, tạo thành “cơn lốc” dân tộc cuốn trôi đi lũ cướp nước, bán nước. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, đó là điều không phải bàn cãi nhiều. Nhưng trong tập thể anh hùng ấy vẫn nổi trội lên những trang hào kiệt, những con người kiệt xuất, những ngươi lãnh đạo, tổ chức đấu tranh đã đi vào lịch sử. Một trong số đó có người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ.

Những giai thoại về vua Quang Trung Nguyễn Huệ có rất nhiều trong dân gian, nhưng chi tiết và xác thực nhất ta có thể thông qua tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái. Trong cuốn tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí đã khắc họa một cách chân thực nhất hình ảnh của một người anh hùng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt các tác giả nhà Ngô gia văn phái theo triều đình phong kiến nhà Lê, nên cách đánh giá, nhìn nhận những chiến công của Nguyễn Huệ trong tác phẩm này có thể nói là khách quan. Nguyễn Huệ hiện lên trên trang văn không chỉ là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất mà còn hiện lên với tư cách của một người bình thường, có những cảm xúc và hành động của một người thường.

Trong Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả Ngô gia miêu tả nhiều diện nhân vật, chính diện có, phản diện có, chỉ cần vài nét phác thảo những nét đặc trưng nhất thì hình ảnh của những con người này hiện lên trang văn với những nét tính cách không thể nhầm lẫn với nhân vật khác. Người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tác phẩm, xuất hiện qua nhiều hồi của tác phẩm. Nhưng có lẽ chi tiết và ấn tượng nhất chính là trong hồi thứ mười bốn, khi Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo nghĩa quân đại bại hai mươi chín vạn quân Thanh. Đây là chương mà người anh hùng Nguyễn Huệ hiện lên rõ nét nhất với những tài năng xuất chúng, bản lĩnh phi thường của một người chủ tướng.

Ngay khi biết tin quân nhà Thanh kéo quân vào kin thành Thăng Long, ấp ủ âm mưu lật đổ nàh Lê, thiết lập chế độ đô hộ trên lãnh thổ Việt Nam ta, nhưng cuộc tiến công của quân Thanh lại ít người biết được, lại thêm việc vua Lê thụ phong đều không một ai hay biết mà cấp báo, phải đến tận ngày hai mươi tư tháng mười một, Nguyễn Văn Tuyết mới đến thành Phú Xuân mà cấp báo với Bắc Bình vương, tức vua Quang Trung Nguyễn Huệ sau này. Biết tin, Nguyễn Huệ vô cùng giận dữ bèn tập trung binh lính, định lập tức lên đường ra Bắc. Nhưng những tướng lính đều đưa ra ý kiến là bây giờ chưa thể đi vì địa vị hiện tại chưa lấy được lòng tin của dân chúng.

Nghe ý kiến của các tướng lĩnh dưới chướng, Nguyễn Huệ cũng cho là hợp lí, bèn lập tức cho đắp đàn tế lễ trên núi Bân, nay thuộc địa phận của huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên tế cáo với trời đất cùng dân chúng để lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thái Đức. Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Quang Trung đã đích thân hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân chinh lãnh đạo quân đội. Quang Trung Nguyễn Huệ không chỉ là một người anh hùng túc trí đa mưu mà còn là một con người biết trọng dụng hiền tài, thể hiện khí chất của một bậc minh quân. Điều đó được thể hiện ra ngay trong việc vua Quang Trung triệu kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để hỏi ý kiến.

Quang Trung đã hỏi ý kiến của Nguyễn Thiếp rằng cuộc tiến công ra Bắc lần này liệu có thể giành được phần thắng hay không, sau khi nhận được lời khẳng định của Nguyễn Thiếp “Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan”. Vua Quang Trung lấy làm mừng lắm, lập tức sau những quân tướng trung thành đi tuyển mộ binh lính ở khắp nơi, cứ ba xuất đinh thì lấy một người. Nghe danh tiếng của vua Quang Trung, cùng quá trình đốc thúc chiêu mộ mà chẳng mấy chốc, nghĩa quân đã được hơn một vạn người tinh nhuệ.

Không chỉ đẩy mạnh công tác tuyển chọn binh lính mà vua Quang Trung còn tổ chức các duyệt binh ở Thanh Hóa, Quảng Nam để phân chia quân đội của mình ra thành bốn doanh: Tiền, hậu, tả, hữu còn số binh lính còn lại thì làm trung quân. Không chỉ đốc thúc chiêu mộ, cho binh sĩ tập luyện mà trước ngày lên đường ra Bắc, vua Quang Trung còn động viên binh sĩ bằng những lời nói đanh thép đầy mạnh mẽ. Trước hết, vua Quang Trung đã trách mắng binh sĩ vì đem thân thờ vua, làm lên những chức vị quan trọng, cai quản nhiều vùng quan trọng nhưng làm việc lại chưa hiệu quả, còn tùy tiện. Vì vậy mà khi quân Thanh kéo đến chưa đánh nổi một trận đã kéo quân rút chạy một cách đớn hèn. Nhưng bởi đều là những bậc võ dũng nên hãy dùng công để chuộc tội. Lần này cùng tar a Bắc đánh dẹp quân Thanh, giành lại chủ quyền cho non sông.

Vua Quang Trung đã bày binh bố trận hợp lí nhằm phát huy sức mạnh của đại quân. Trước hết, cử nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong, Hám hổ đốc suất hậu quân làm đốc chiến, hay đại đô đốc Lộc, Tuyết làm đốc xuất tả quân. Bên cạnh đó, cánh quân thủy sẽ đưa quân vượt biển vào sông Lục Đầu, vua Quang Trung còn bố trí những vị trí phòng thủ, tấn công, thậm chsi còn sai người chặn đánh đường rút lui của quân Thanh, hay đội quân tiếp ứng, sẵn sàng tham chiến. Có thể nói, ngay từ khâu tổ chức quân của vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã thể hiện bản lĩnh của một vị chủ tướng mưu lược, tài năng. Một cuộc chiến mà có sự tổ chức chặt chẽ về quân đội và phương hướng chiến đấu như vậy thì khó mà có thể thất bại.

Cuộc hành quân ra Bắc của vua Quang Trung Nguyễn Huệ cũng đã đi vào lịch sử, bởi đây là một cuộc hành quân thần tốc, bởi không ai có thể tin được chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, vua Quang Trung đã mang toàn bộ quân đội ra Bắc, bao vây thành Thăng Long mà quân giặc không hề hay biết. Chiến lược của vua Quang Trung trong cuộc hành quân này là cho quân lính theo tốp ba người luân phiên nhau võng đi, quân lính được luân phiên nghỉ ngơi hợp lí nên cuộc hành quân diễn ra vô cùng thần tốc, khiến cho quân Thanh hoảng loạn, sợ hãi khi bị đại quân bao vây, tấn công.

Bao vây kinh thành Thăng Long, vua Quang Trung cho binh lính lấy những tấm ván bọc rơm và tẩm nước phủ kín bên ngoài làm vòng vây bảo vệ nghĩa quân. Tiếp đó là những binh sĩ khỏe mạnh, cứ nhóm mười người khiêng một tấm, sau lưng sẽ có binh lính theo sau, mang theo vũ khí, dàn trận thành hình chữ nhất. Vua Quang Trung đích thân cưỡi voi chỉ huy kháng chiến. Đến ngày mùng năm thì nghĩa quân đã tiến sát Ngọc Hồi khiến cho quân Thanh chống đỡ không nổi mà bỏ chạy toán loạn, dẫm đạp lên nhau để tìm đường thoát thân, tên thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống thắt cổ chết.

Quân của vua Quang Trung đại thắng, hai mươi chín vạn quân Thanh đại bại dưới sức mạnh không ngờ của nghĩa quân. Đại thắng của nghĩa quân Tây Sơn đã đi vào lịch sử nước nhà, là một trong những chiến thắng vẻ vang nhất.

Bình luận (0)
Huong San
16 tháng 6 2018 lúc 6:14

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dự định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyễn Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trại, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại an ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quân lệnh nghiêm minh, quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bụi đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quân tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi - Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 3 ngày, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thắng xông lên chém giết quân giặc, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.

Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
Lê Thị Quỳnh Như
Xem chi tiết
nguyễn thị quyên
Xem chi tiết
Thúy Hằng
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Thu Thủy
Xem chi tiết
Thanh
Xem chi tiết
châu ngọc minh tâm
Xem chi tiết
Đỗ Minh Đăng
Xem chi tiết
Ng Khánh Linh
Xem chi tiết
Nguyễn Minh Dương
Xem chi tiết