Mỗi nhà thơ bộc lộ niềm khao khát tự do của mình theo một cách, làm cho tiếng nói tự do trở nên phong phú Thế Lữ và Tố Hữu, bằng một số bài thơ, cũng đã góp những tiếng thơ khao khát tự do thật tha thiết.
Giữa cảnh đất nước nô lệ, Thế Lữ đã mượn hình ảnh con hổ, vị chúa tể của rừng xanh bị giam cầm trong vườn Bách thú để nói lên niềm khao khát tự do, nuối tiếc một quá khứ huy hoàng của mình trong bài Nhớ rừng.
Gậm một khối căm hờn trong củi sắt.
“Khối căm hờn” đó ngày một lớn dần, cùng với nỗi “nhớ rừng”, nhớ kỉ niệm vàng son mà giờ chỉ còn là trong kí ức thôi:
Nào đâu những đêm vàng bên hờ suối.
Dòng hồi tưởng của con hổ được thể hiện qua những kỉ niệm huy hoàng, kết hợp với các câu hỏi tu từ làm bài thơ trở nên sâu sắc hơn. Các từ "nào đâu", “đâu những” được Thế Lữ dùng như để chỉ những kỉ niệm đã tuột khỏi tay rồi, không gì lấy lại được.
Nỗi tiếc nuối đó càng lớn dần lên, nhớ thời xưa ta là chúa tể sơn lâm, nhớ những ngày mưa chuyển bốn phương, những “tiếng chim ca”, tiếng chân bước mạnh mẽ... Tất cả, tất cả như va đập trong trí nhớ của con hổ, và kiêu hãnh làm sao khi:
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật.
Vậy mà giờ đây, giữa lồng cũi, ta chỉ làm “trò mua vui cho thiên hạ”, ôi thời xa xưa!... Nỗi tiếc nuối, niềm khát khao tự do lại được hể gầm lên ở câu kết.
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Thời “oanh liệt” ấy chẳng còn đâu nữa, chỉ còn lại hổ với tiếng gầm thét đòi tự do thật quá mãnh liệt.
Hình ảnh con hổ bị tù đày ở đây phải chăng chính là hình tượng của cả một dân tộc sống trong cảnh tù đày, nô lệ. Tiếng gầm đó chính là niềm khát vọng đã thôi thúc mãnh liệt con người tìm đến tự do, tìm đến chính mình ở một thế giới bình đẳng, bác ái. Nhà thơ Thế Lữ đã thành công khi chọn lựa hình ảnh của một con hổ bị tù đày để nói lên khát vọng rực cháy muốn tìm tự do của cả một lớp người.
Bằng sự cảm nhận sâu sắc của một người tù phải chịu cảnh sống mất tự do, Tố Hữu đã viết trong bài Khi con tu hú:
Khi con tu hú gọi bầy.
Tiếng gọi vang dội từ bên kia song sắt, nhà thơ như cảm nhận được hè về trải dài trên những đồng cỏ, những ruộng lúa, và bầu trời tự do:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ước gì nhà thơ được như những con chim kia, có thể tung cánh khắp bốn phương trời. Nhưng mọi sự chỉ đều là cảm nhận mà thôi, bốn bức tường, song sắt nhà tù đã ngăn cách nhà thơ với thế giới bên ngoài. Sự thiếu tự do, uất hận trào dâng:
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
“Hè ôi!”, câu thơ như than vãn về một sự việc không thể thực hiện được.
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Hai câu thơ thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhà thơ, khi sống thiếu tự do con người có thể “chết uất thôi”. Tiêng chim tu, hú vẫn cứ kêu. Mở bài và kết bài đều là tiếng chim tu hú gọi hè dậy lên. Nhưng câu mở diễn ra với một không gian tự do, còn câu kết bài lại chính là tiếng gọi của tự do. Con chim vẫn cứ kêu lên, dù chỉ là khắc khoải, nhưng nó vẫn cố bám lấy một tia hi vọng, một tiếng “tự do”.
Nếu như nhà thơ Thế Lữ rất thành công khi mượn hình tượng con hổ thì Tố Hữu cũng gây được ấn tượng không nhỏ trong người đọc về hình ảnh con chim sẻ bé bỏng. Con chim sẻ không oai hùng, không đầy sức mạnh như vị chúa sơn lâm nhưng nó cũng cần có tự do. Và nó đã gục chết khi bị nhốt trong lồng. Ngày hôm qua khi chưa bị giam cầm “nó hãy còn bay nhảy” vậy mà “chỉ một ngày giam đã chết rồi”. Tác giả đã nói lên những niềm băn khoăn, day dứt của mình bằng những câu hỏi tu từ sâu sắc, ở khổ thơ đầu là lời băn khoán, thì ở khổ thứ hai là lời tự chất vấn.
Tôi đã tù, sao bắt nó tù?
Niềm băn khoăn dần chuyển thành lời day dứt của một kẻ tù mà không nhạy cảm với sự tù. Và cái chết của con chim nhỏ đã được giải thích ở khổ thơ sau: nó chết vì thiếu “mây gió”, không được “uống ánh trời”. Ở trong tù, con chim nhỏ dầu không phải kiếm ăn, người tù đã nhường cơm cho nó, nhưng sao vật chất có thể thay được tự do.
Bài thơ với những câu hỏi tu từ láy đi láy lại nhức nhối, đớn đau vì sự “vỡ nhẽ” dần dần cái giá trị vô giá của tự do. Bởi vì mất tự do thì cả con vật bé nhỏ cũng không sống nổi, huống hồ là con người. Người ta không chỉ cần tự do cho cuộc sống vật chất mà hơn thế nhiều, tự do cho cuộc sống tinh thần.
Thơ ca giai đoạn 1930 - 1945 này đã xuất hiện nhiều bài thơ nói lên khát vọng tự do đến cháy bỏng của con người Việt Nam. Niềm khát khao tự do ấy cũng được thế hiện khá thành công trong bài thơ Nhớ rừng và trong thơ Tố Hữu.
1.Mở bài:
Nhà văn, nhà thơ khi cầm bút sáng tác là gửi gắm vào tác phẩm tâm tư, tình cảm của mình. Vì thế khi đọc tác phẩm văn học ta thấy hiện lên chân dung tâm hồn người viết. Mỗi tác phẩm là một thế giới tâm hồn, tình cảm riêng. Nhưng đọc Nhớ rừng (Thế Lữ), Khi con tu hú (Tố Hữu) và Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta cùng bắt gặp một niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt của con người.
2.Thân bài:
2.1. Niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt vừa được thể hiện trực tiếp vừa được thể hiện gián tiếp trong mỗi tác phẩm.
- Với Nhớ rừng của Thế Lữ khát vọng cuộc sống tự do ấy bày tỏ kín đáo mà mạnh mẽ qua tâm trạng con hổ nhớ rừng. Con hổ đang nằm trong cũi sắt vườn bách thú. Nó vô cùng cay đắng và căm uất:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
đó là nỗi uất hận của hùm thiêng khi đã sa cơ phải chịu nhục nhằn, tù hãm, phải sống trong cảnh tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Cảnh vườn bách thú tù túng đó phải chăng là cái thực tại xã hội đương thời được nhà thơ cảm nhận? Không thế sao bài thơ gây ấn tượng mạnh với độc giả đương thời đến thế ! Và Thế Lữ đâu hoài công nói về một con hổ. Con hổ sống trong cảnh giam cầm tù hãm đó nhớ tiếc đến đau đớn cả một thời oanh liệt đã qua:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa
Những ngày xưa là cả một quá khứ huy hoàng. Hổ sống tự do giữa giang sơn của mình với những gì lớn lao, phi thường, mãnh liệt và dữ dội, hoang vu: gió goà ngàn, nguồn hét núi, vờn bang âm thầm lá gai cỏ sắc.Trong quá khứ đã qua ấy, nó được tự do tận hưỡng cảnh sống khi thì thơ mộng: những đêm vàng bên bờ suối… đứng say mồi uống ánh trăng tan, khi thì rộn rã , tưng bừng bình minh cây xanh nắng gội, tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng, khi thì mãnh liệt và dữ dội: những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, những chiều lênh láng máu sau rừng. Nhưng tất cả đã qua, đã không còn:
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu!
Tiếng than đầy u uất, đầy đau đớn có phải chăng chỉ là của con hổ? Không! Nó chính là nỗi đau và tâm trạng hoài vọng của Thế Lữ, của những người yêu nước đương thời. Con hổ càng căm ghét cảnh sống thực tại, càng nhứ tiếc da diết quá khứ thì càng khat khao trở lại rừng xưa:
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Khát vọng trở lại rừng xưa của con hổ cũng là kháy vọng về cuộc sống tự do của cả một lớp người, của cả một dân tọc trong những năm tháng nô lệ.
- Còn với bài thơ Khi con tu hú(Tố Hữu) khát vọng tự do được bày tỏ một cách trực tiếp với ý chí bất khuất: Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do!
Giữa chốn ngục tù của thực dân, người chiến sĩ cộng sản bỗng bắt gặp tiếng chim tu hú gọi bầy. Theo tiếng chim là cả một không gian hè với tiếng ve ngân trong vườn, với sân đầy bắp vàng, với bầu trời xanh cao rộng. Đặc biệt là hình ảnh đôi con diều sáo lộn nhào từng không – thật tự do, thật thoải mái với khát vọng tung hoành. Nó đối lập hoàn toàn với cảnh tù ngục. Vì vậy mà người chiến sĩ uất hận, sôi sục:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội, ngột ngạt để trở về cuộc sống tự do. Mùa hè đến với bao âm thanh dậy trong lòng, thôi thúc, giục giã người chiến sĩ cách mạng không cam chịu cảnh tù đày mà hãy đập tan phòng xà lim chật chội. Tiếng chim tu hú vừa gợi nhớ vừa thúc giục đến với tự do. Vì thế Khi con tu hú không chỉ tái hiện cảnh tù đày mà còn là bày tỏ lòng yêu đời, khát vọng tự do, muốn tung phá, giải phóng của nhà thơ.
- Đến với Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) ta bất chợt chùng lòng bởi vẻ đẹp tâm hồn chiến sĩ thi sĩ. Cũng ở trong cảnh tù ngục mà ngục tù không giam được tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của Người. Đối lập với cảnh tù u ám là một đêm trăng đẹp:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Rung động mãnh liệt trước cảnh trăng đẹp, người chiến sĩ cách mạng ung dung thưởng ngoạn trăng:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ
Kì diệu thay là sức mạnh tinh thần! Mặc nhà tù đen tối, mặn hiện thức bạo tàn, Bác vẫn đến với vầng trăng thơ mộng bởi đó là thế giới tự do, là vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời.Phép đối và nhân hoá được sử dụng rất đắc dụng ở đây.Người tù hướng ra ngoài cửa sổ say ngắm vầng trăng sáng, vầng trăng vượt qua song sắt, qua khe cửa hẹp của nhà tù để ngắm nhà thơ.Nhà tù trở nên vô nghĩa lý trước những tri âm, tri kỷ. Đến với trăng là Bác đến với cái đẹp, với tự do. Vì thế mà cả bài thơ không có chữ tự do mà lại toát lên một tâm hồn rất tự do, luôn luôn làm chủ được mọi hoàn cảnh của Bác. Và thật chính xác khi khẳng định Ngắm trăng là một cuộc vượt ngục về tinh thần.
2.2. Có thể thấy rằng dù bằng cách này hay cách khác mỗi tác phẩm đều thể hiện niềm khao khát cuộc sống tự do mãnh liệt. ẩn sâu bên trong nó là gì nếu không phải là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng. Những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn trong Nhớ rừng đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của những người dân mất nước thuở ấy. Còn trong bài thơ Khi con tu hú là sự bày tỏ lòng yêu cuộc sống qua niềm khao khát tự do cháy bỏng bằng những vần thơ lục bát giản dị, thiết tha của Tố Hữu. Với Tố Hữu được tự do là được cống hiến, được chiến đấu vì lý tưởng cao quý. Và Ngắm trăng- bài thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc là dẫn chứng thuyết phục nhất cho thấy tinh thần thép- phong thái ung dung lạc quan của Bác Hồ trước kẻ thù. Cội nguồn của phong thái đó là niềm tin vào tương lai cách mạng của Bác.
3. Kết bài:
Thật vậy, mỗi bài thơ là một vẻ đẹp của tâm hồn người viết. Dù nội dung và hình thức có khác nhau thì tựu trung lại vẫn là bày tỏ khát vọng của mình: khát vọng tự do. Nó là nỗi niềm khôn nguôi trong lòng người dân Việt Nam khi mất nước. Nó đã tạo nên sức mạnh để non sông Việt Nam thu về một mối, đất nước sạch bóng quân thù.