1. Đóng vai ông Giáo kể lại tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó và cái chết của lão
2. Đóng vai chị Dậu kể lại tâm lý của chị trong cuộc đối thoại với tên cai lệ
3. Đóng vai anh Dậu kể lại tâm lý của chị Dậu trong cuộc đối thoại với tên cai lệ
4. Đóng vai Hồng kể lại diễn biến tâm lý trong cuộc đối thoại với người cô
Tham khảo !!!
Tôi là một thầy giáo nghèo sống an phận trong làng. Mọi người gọi tôi bằng cái tên thân mật: “ông giáo”. Là một người trí thức, không sung sướng gì hơn những người khác, nhưng sống giữa những người nông dân trong cái tình cảnh đói kém, mất mùa những năm 1943 như thế này tôi không khỏi đau lòng, xót xa cho số phận những người đồng bào lao khổ. Người khiến tôi phải suy nghĩ nhiều nhất là lão Hạc - một ông lão sống cô độc gần nhà tôi. Tôi không thể nào quên được hình ảnh của lão khi chiều qua lão đến nhà tôi báo tin bán con chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ tột độ. ”
- Vừa nhìn thấy tôi lão đã báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
Tôi hơi giật mình hỏi lại:
- Cụ bán rồi?
Lão gật gật:
- Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Lão đã đau đớn lắm khi bán đi con chó ấy. Không dành lòng nhìn lão khổ sở thế kia, tôi hỏi:
- Thế nó cho bắt à?
Tôi hỏi cho có chuyện vậy thôi nhưng không ngờ... Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc... Giọng lão méo mó, tội nghiệp:
- Khốn nạn... Ông giáo ơi!... Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai chân sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bô"n chân nó lại. Bấy giờ “cu cậu” mới biết là “cu cậu” chết! Này! Ông giáo ạ! Cái giông nó cũng khôn! Nó cứ làm y như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!
Lão nức nở thều thào một hơi dài như mong muốn sẻ chia nỗi đau. Tôi cũng có phần luống cuông: nhìn người khác khóc lóc, đau đớn mà không giúp được gì tôi thấy mình mang tội. Tôi lắp bắp mấy lời an ủi:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để cho nó làm kiếp khác.
Nhưng lại như lần trước, lời an ủi của tôi chỉ càng làm lão nghĩ ngợi hơn. Lão chua chát bảo:
- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...
Nghe lão nói, tôi cũng rùng mình chua chát cho chính thân phận của mình nữa. Tôi ngùi ngùi nhìn lão, bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ. Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
Gương mặt lão tê dại đi, đôi mắt đã đục màu như nhìn đăm đăm vào chốn nào đó:
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Câu hỏi của lão còn ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Lúc dó, tôi đã lảng di bằng một câu đùa để mời lão ăn khoai uống nước. Nhưng giờ đây, ngồi lại một mình, tôi lại đem câu hỏi ấy ra để tự vấn lòng mình. Chao ôi! Đồng bào tôi trong cái tối đất tối trời của xã hội còn bao người đau khổ, lầm than như thế? Mà đời tôi cũng có khác gì đâu? Nhưng tôi lại thấy lóe lên trong lòng một tia sáng của niềm tự hào, niềm tin: đồng bào tôi tuy đói khổ, nghèo nàn nhưng vẫn giữ trọn vẹn nhân cách. Nỗi đau của lão Hạc là nỗi đau của tình thương và lòng tự trọng, nỗi đau của một tâm hồn cao đẹp...
Đề: Vào vai nhân vật Ông Giáo, hãy kể lại cảnh Lão Hạc sang báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ.Đã ba ngày nay rồi mà câu chuyện của Lão Hạc, người hàng xóm của tôi, vẫn cứ làm cho tôi băn khoăn lắm. Tôi không biết việc nhận ba mươi đồng bạc, tiền lão đưa để nhờ hàng xóm làm ma chay, có đúng không nữa? Khoảnh khắc lão báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ buổi chiều hôm nọ cứ ám ảnh tôi mãi. Nhìn lão lúc ấy thật khổ sở và tội nghiệp làm sao ấy. Tôi bồi hồi nhớ lại…Chiều hôm nọ, tôi ngồi trước sân nhà mà lòng cảm thấy buồn nao nao. Làng quê sau bão tiêu điều và xơ xác. Cây cối đổ ngổn ngang. Đâu rồi tiếng vui đùa của bọn trẻ, tiếng cười nói râm ran của những bà đi chợ sớm, tiếng hò câu hát của những đôi trai gái hẹn hò nhau. Nhìn mấy đứa trẻ con tha thẩn chơi với nhau ở góc sân, tôi buồn cho chúng quá. Vài ánh nắng còn sót lại sau vườn làm cho khung cảnh não nề thêm. Đang mải suy nghĩ, tôi giật mình khi nghe tiếng bước chân lạch xạch trên sân. Từ xa, tôi chợt thấy một bóng người đi tới, tôi đoán ngay đó là Lão Hạc – người bạn già của tôi. Không biết có chuyện gì không mà trông lão vội vã lắm.Vừa thấy tôi, lão báo ngay:- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!Tôi ngạc nhiên hỏi:- Cụ bán rồi à?- Bán rồi, họ vừa mới bắt xong.Lúc ấy, lão cố làm ra vui vẻ nhưng lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Nhìn lão, tôi muốn chạy lại ôm lão mà an ủi. Nhưng tôi biết làm vậy không tiện. Nhìn thấy lão như vậy, tôi nhớ về chuyện của mình năm xưa nhưng bây giờ tôi không cảm thấy xót xa năm quyển sách của tôi như trước nữa mà chỉ cảm thấy ái ngại cho lão. Tôi hỏi cho có chuyện:- Thế nó cho bắt à?Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Những dòng nước mắt khô khốc lại. Cả đời lão không thể đếm xiết là khóc bao nhiêu lần rồi. Lão gặp toàn chuyện đau lòng. Lão đã khóc vì mất vợ, lão lại khóc vì con trai đi làm cao su,… nay lại khóc vì nỗi đau mất chó, người bạn luôn ở bên cạnh lão. Ôi! Lão thật là tội nghiệp. Bây giờ, khi lại nhắc về chuyện đó, tôi lại cảm thấy buồn nao nao.Rồi cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu máo như con nít, lão huhu khóc… Lòng tôi càng thắt lại, khóe mắt tôi cũng thấy cay cay nhưng tôi kiềm lại được. Sau đó, bằng giọng đứt quãng, lão kể chuyện bán chó cho tôi nghe. Lão kể chuyện bắt chó trong nước mắt. Lão gọi con chó lại cho nó ăn cơm thì thằng Xiên và thằng Mục đứng sau ra bắt nó. Nó nằm yên, kêu ư ử rồi nhìn lão rất lâu làm lão rất ân hận và day dứt.Tôi động viên lão, an ủi mãi nhưng nỗi buồn của lão vẫn chưa nguôi. Ôi! Lão thật đôn hậu, sống có nghĩa có tình. Lão lương thiện quá! Tôi vỗ về, an ủi và gợi chuyện để khuyên giải lão. Dường như nỗi buồn ấy vẫn không tan được. Biết làm sao được.Rồi tôi xuống bếp luộc mấy củ khoai mời lão thì lão gọi lại và nhờ tôi hai việc với vẻ mặt nghiêm trang lạ thường. Và lão bảo muốn nhờ tôi giữ giúp mảnh vườn cho anh con trai và ba mươi đồng bạc cuối cùng để gửi lại nhờ hàng xóm làm ma chay giúp nếu lão có việc gì không may. Về việc nhận mảnh vườn thì tôi đồng ý ngay nhưng khi lão gửi ba mươi đồng bạc thì tôi băn khoăn lắm! Không biết, lão sẽ lấy gì mà ăn mà sống? Cuộc sống ngày mai của lão sẽ ra sao? Thấy lão năn nỉ mãi thì tôi đành nhận vậy nhưng lòng tôi lại thấy lo cho lão rất nhiều. Bây giờ nghĩ lại, nếu lúc ấy tôi hỏi cho ra nhẽ và khuyên can lão thì sẽ không có những điều đáng tiếc xảy ra. Dù sao, qua cuộc trò chuyện này, tôi thấy lão thấy lão thương con mình quá! Lão hi sinh tất cả để giữ mảnh vườn cho anh. Lão quả là một người cha tuyệt vời. Sau đó, Lão Hạc ra về với một vẻ mặt ủ rũ, dáng điệu thất thiểu. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng chắc lão buồn về chuyện bán chó mà thôi. Mấy hôm liền, lão chỉ ăn khoai, ăn những gì mà kiếm được. Tôi cảm thấy lo lắng và muốn giúp nhưng lão từ chối có khi rất hách dịch. Tôi buồn lắm nhưng cũng chẳng biết làm sao? Sau buổi trò chuyện ấy, tôi hiểu và càng yêu quý lão hơn. Một con người khốn cùng, cô đơn tội nghiệp nhưng đầy tình yêu thương, sống trọn vẹn có nghĩa có tình. Chỉ trót bán một con chó mà lão đã khổ sở như vậy. Tôi nghĩ lão không nỡ đối xử tệ với ai đâu. Những ngày tiếp theo, tôi chỉ mong muốn sao lão không phải rơi vào hoàn cảnh như thế nữa và anh con trai lão mau về để lão bớt khổ thêm. Nhưng nó đã xảy ra không như ý tôi muốn, chỉ một lúc sau, người trong làng phát hiện lão mất vì ăn bã chó. Đến bây giờ lão đã mất được hai năm rồi và tôi đã hiểu cái ý nghĩ xa xăm mà lão đã nghĩ tới đó là cái chết. Lão đã chọn một cái chết thật bi thảm để dành dụm tiền cho con mình. Chỉ từng nấy thôi cũng đủ biết qua rồi, nhắc lại làm gì nữa, tôi cứ coi như đó là một câu chuyện buồn về một người bạn già mãi sống trong lòng tôi hôm nay và mãi mãi. . Đề: Vào vai nhân vật Ông Giáo, hãy kể lại cảnh Lão Hạc sang báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ. Đã ba ngày nay rồi mà câu chuyện của Lão Hạc, người hàng xóm của. khoăn lắm. Tôi không biết việc nhận ba mươi đồng bạc, tiền lão đưa để nhờ hàng xóm làm ma chay, có đúng không nữa? Khoảnh khắc lão báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ buổi chiều hôm. Lão Hạc – người bạn già của tôi. Không biết có chuyện gì không mà trông lão vội vã lắm. Vừa thấy tôi, lão báo ngay: - Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ! Tôi ngạc nhiên hỏi: - Cụ bán rồi à? - Bán
Gia đình tôi vốn thuộc dạng cùng đinh nghèo túng nhất cái làng này, đã không có đủ cơm ăn áo mặc, lại thiếu nhà nước một suất sưu…Mấy hôm nay tôi phải chạy vạy ngược xuôi để kiếm tiền nộp thuế cho chồng – anh Dậu. Đã đến ngày nộp sưu mà tôi vẫn chưa có đủ tiền, thế là cai lệ và người nhà lí trưởng đến đòi nợ và xông vào nhà bắt chồng tôi đang ốm trên giường lôi ra đình…
“Ôi trời ơi!” – tôi thất thần thốt lên một cách đau đớn. Chồng tôi được người ta trả về rũ rượi như một cái xác chết. Tôi hoảng sợ và đau đớn hơn khi gọi mãi nhưng anh ấy chẳng tỉnh, may sao nhờ có bà con xung quanh đến cứu giúp, chồng tôi đã từ từ mở mắt. Nước mắt tôi lăn dài trên má, không hiểu sao người ta lại đối xử với nhau tàn nhẫn như thế.
Bà lão hàng xóm thương tình mang đến cho tôi bát gạo để nấu cháo. Được miếng ăn, tôi luống cuống đi nấu cháo và mang ra cho chồng mình vì anh ấy đã kiệt sức do đòn roi và mấy ngày qua cũng chưa có miếng gì trong bụng. Sức đâu mà chịu nổi. Tôi thầm nghĩ nếu húp xong bát cháo này thì anh Dậu sẽ khỏe lại thôi.
Nhưng cuộc đời quả thật trớ trêu, khi chồng tôi bưng bát cháo lên chưa kịp húp miếng nào thì…”Sầm” – tiếng đập cửa cai lệ và người nhà lí trưởng hùng hổ xông vào nhà. Trước sự hung hăng và dữ tợn ấy, chồng tôi hoảng quá, để bát cháo xuống và lăn đùng ra phản, không nói được câu gì. Nhìn mà xót cho anh ấy, tôi bỗng cảm thấy mình có lỗi….Che giấu sự hoang mang lo sợ của mình, tôi cố gắng bình tĩnh…run run van xin cho mình được khất nợ:
- Nhà cháu đã túng lại còn phải đóng suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…
Tôi chưa kịp nói hết câu, tên cai lệ đã trợn ngược hai mắt, thật ghê tởm và đáng sợ, hắn quát xối xả vào mặt tôi như để hả giận. Vì chồng mình, tôi vẫn thiết tha cầu xin, chỉ mong cho mình được khất nợ, qua ngày hôm nay thôi đối với tôi lúc bấy giờ cũng thật nhẹ nhỏm…Tên cai lệ vẫn bỏ ngoài tai lời van xin cầu khẩn của tôi, giọng hầm hè hù dọa rồi ra lệnh cho tên người nhà lí trưởng :
- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!
Tên người nhà lí trưởng hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, hình như ko dám hành hạ một ng` đang đau ốm, sợ xảy ra chuyện gì... Bỗng đùng đùng, tên cai lệ giật phắt cái sợi dây thừng sầm sập chạy ngay đến chỗ chồng tôi đang nằm định trói gô anh Dậu lại. Tôi vô cùng hoảng sợ và xám mặt, vội vàng chạy lại đỡ lấy tay hắn mà cầu xin:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
Bất ngờ hắn bịch vào ngực tôi mấy phát đau đớn và nói như hét:
- Tha này! Tha này!
Dường như chưa đủ để thỏa mãn thói tàn ác,hành hạ người khác, hắn lại sấn đến để trói chồng tôi. Đối với tôi, chồng con là tất cả, tôi có thể chịu đau đớn tủi nhục đến mấy cũng được nhưng không thể đứng nhìn chồng con bị hành hạ tàn nhẫn như thế. Tức quá không thể nhịn được, tôi đành liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Hắn vẫn không vừa, liền tát vào mặt tôi một cái mạnh như búa bổ rồi cứ sấn đến chỗ anh Dậu…Bị dồn nén đến mức đường cùng,đã đến nước này rồi, tôi không thể chịu được nữa, dùng cái tình để van xin cũng không được, dùng cái lý cũng không thể nào khất nợ dù chỉ một ngày…Tôi thấy mình đã quá cam chịu nhẫn nhục, nghiến hai hàm răng, tôi quát:
- Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!
Tên cai lệ vẫn hung hãn bước tới chỗ chồng tôi. Bất giác, tôi túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa, bịch cho mấy phát vào bụng. Tôi vớ được cây gậy của hắn, hai bên giằng co nhau, áp vào vật nhau rối túm tóc lẳng cho một cái, ngã ngào ra thềm. Dường như sức lẻo khoẻo của những người nghiện ngập lại không bằng được với sức của người đàn bà lực điền như tôi, nhất là trong khi lòng ngập nổi oan ức, căm phẫn.
Tôi vẫn chưa nguôi cơn giận, cứ nghĩ đến cảnh chồng mình sắp bị hành hạ là ruột gan cứ như nóng lên, bất chấp hậu quả ra sau tôi cũng không sợ, lúc này tôi không còn thấy sợ, dẫu tôi cũng thừa biết rằng đụng tới cai lệ và người nhà lí trưởng cứ như đụng với “trời”, sẽ không sống được bình yên nhưng biết làm sao đây! Tôi đã nhịn quá nhiều và đã đến lúc không thể nhịn được nữa…
Chồng tôi thấy vậy cũng sợ, hình như anh ấy đang định nói điều gì với tôi nhưng vì mệt quá, ngồi lên lại nằm xuống vừa run vừa kêu:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội.
Tôi thẳng thừng và dứt khoát mãnh liệt:
- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được.
Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn - cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ - cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều, khi tất cả tình yêu với mẹ đã được nhà văn giãi bày trên trang giấy.
Một đoạn trích ngắn, một tình yêu vô bờ bến nhà văn dành cho mẹ đã khiến cho bao trái tim trẻ thơ thổn thức. Điều quan trọng hơn, nhà văn đã đem đến cho ta những giờ phút suy ngẫm về vai trò Người Mẹ. Có lẽ vì những ngày thơ ấu in đậm trong hoài niệm đã làm nên một hồn văn nhân ái Nguyên Hồng sau này chăng?