Nội dung lý thuyết
- Nói mỉa là biện pháp tu từ thể hiện thái độ mỉa mai hay sự đánh giá mang tính phủ định ngầm ẩn của người nói, người viết đối với sự vật, sự việc được đề cập.
- Trong nói mỉa, người nói tạo ra sự mâu thuẫn cố ý giữa phần hiển ngôn và phần hàm ngôn của một lời nói hay của cả chuỗi phát ngôn:
+ Phần hiển ngôn: thái độ tán thành, khen ngợi hoặc trung lập khách quan.
+ Phần hàm ngôn: thái độ phủ nhận hoặc dè bỉu.
= > Tác dụng: Châm biếm
- Nghịch ngữ là một biện pháp tu từ đặc biệt, trong đó người viết hoặc người nói sử dụng những từ ngữ, cụm từ mang nghĩa trái ngược nhau để tạo ra những câu nói, cách diễn đạt bất ngờ, gây ấn tượng mạnh và tạo ra những hiệu ứng nghệ thuật độc đáo.
- Những từ, cụm từ vốn thể hiện chiều hướng đánh giá tiêu cực về một đối tượng. Hoặc, các từ biểu thị sự đánh giá tích cực, nhưng nghĩa của cả từ, cụm từ lại thể hiện một thái độ trái ngược, hàm ý phê phán, chê bai.
Ví dụ: Trong lời nói xuất hiện những từ, cụm từ vốn thể hiện chiều hướng đánh giá tiêu cực về một đối tượng: Hay ho, hay hớm, đẹp mặt, tốt mã, làm ca thiên hạ, ăn trắng mặc trơn, mèo mù vớ cá rán,… Ví dụ: "Hay ho nhỉ?"; "Đẹp mặt chưa kìa!"…; Trong các cụm từ in đậm ở hai ví dụ, các yếu tố “hay”, “đẹp” biểu thị sự đánh giá tích cực, nhưng nghĩa của cả từ, cụm từ lại thể hiện một thái độ trái ngược, hàm ý phê phán, chê bai.
- Người nói, người viết nêu những tình huống, điều kiện phi lí gắn với khả năng, hành động, sự việc đang được nói tới.
Ví dụ: “Hắn mà làm được điều đó thì tôi đi đầu xuống đất!”.
- Có sự pha trộn đáng ngờ giữa kiểu nói lịch sự và nói quá.
Ví dụ: “Cám ơn ngài, ngài đã dạy quá lời”; “Kẻ hèn mọn này đâu dám đứng ngang hàng với các vị”.
- Có sự xuất hiện của yếu tố nhại trong phát ngôn.
Ví dụ:
Hẩu lố, mét xì thông mọi tiếng
Chẳng sang Tàu cũng tếch sang Tây.
(Trần Tế Xương, Mai mà tớ hỏng)
- Có sự thay đổi bất ngờ về cách trần thuật hay giọng điệu trần thuật ngay trong một đoạn văn.
Ví dụ: "Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.
- Hứt!... Hứt!... Hứt!..."
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
- Có sự kết hợp dường như phi lí giữa các từ mang nghĩa đối chọi ngay trong một cụm từ.
Ví dụ: Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh.
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
- Câu có cụm từ mang tính chất của một phụ chú khác thường đối với đối tượng được đề cập trước đó.
Ví dụ: Ông hứa thế; giả thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa, thì chúng ta vẫn được phép tự hỏi liệu quan Toàn quyền Va-ren sẽ "chăm sóc" vụ ấy lúc nào và ra làm sao.
(Nguyễn Ái Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)