Nội dung lý thuyết
- Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định các bộ phận của vùng biển nước ta thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.
- Các đảo và quần đảo phân bố trên vùng biển nước ta, tập trung ở vùng Đông Bắc và Tây Nam, và có hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa.
- Vùng biển và hải đảo tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối giữa các vùng lãnh thổ, giao thương và mở đường ra Biển Đông.
- Vùng biển và hải đảo Việt Nam có vị trí chiến lược trên đường hàng hải và hàng không quốc tế, nối liền các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á và các châu lục khác.
- Nước biển và không khí trên đảo nước ta sạch và trong lành.
- Chỉ số chất lượng môi trường biển đảo đều nằm trong giới hạn cho phép của Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam hiện hành.
- Môi trường biển đảo rất nhạy cảm với tác động của tự nhiên và con người.
- Sạt lở bờ biển, tăng lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường và suy giảm hệ sinh thái biển đang xảy ra ở một số nơi.
- Tài nguyên biển đảo Việt Nam phong phú và đa dạng, tập trung ở vùng ven bờ và thềm lục địa.
- Dầu mỏ, khí tự nhiên, sắt, ti-tan và cát là tài nguyên cạn kiệt.
- Các tài nguyên khác có khả năng tái tạo và có thể khai thác bền vững.
- Hoạt động khai thác và ô nhiễm môi trường làm suy giảm và cạn kiệt tài nguyên biển đảo.
a) Thuận lợi
- Vùng biển đảo Việt Nam có nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú, tạo điều kiện cho phát triển các ngành kinh tế biển như giao thông vận tải, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, du lịch, và phát triển nghề muối.
- Giao thông vận tải biển: Vùng biển Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, nằm trên con đường hàng hải quan trọng, thuận lợi cho các phương tiện vận tải và giao thông đường biển hoạt động quanh năm.
- Du lịch biển: Vùng biển Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch biển đặc sắc, độc đáo, góp phần thúc đẩy ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta.
- Khai thác, nuôi trồng thuỷ sản và khai thác khoáng sản: Vùng biển Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản phong phú đã tạo nguồn lợi lớn cho việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác dầu mỏ, khí tự nhiên, cát,... Từ đó, cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, thực phẩm hàng hoá tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho đất nước.
- Phát triển nghề muối: Vùng biển Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển nghề muối, đặc biệt là ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.
b) Khó khăn
- Thiên tai: Vùng biển đảo Việt Nam thường xuyên gặp bão, áp thấp nhiệt đới gây thiệt hại cho đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, giao thông và du lịch biển.
- Ô nhiễm, suy giảm đa dạng sinh học và cạn kiệt tài nguyên biển: Đây là những trở ngại lớn cho việc khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế – xã hội bền vững của vùng biển đảo Việt Nam.
a) Thuận lợi
- Việt Nam kí kết phê chuẩn tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 để khẳng định chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp trên biển.
- Việt Nam ban hành Luật Biển Việt Nam năm 2012 để sử dụng, quản lí, bảo vệ biển, đảo và phát triển kinh tế biển; tăng cường hợp tác quốc tế và trong khu vực.
- Việt Nam tham gia xây dựng Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC), ký kết nhiều hiệp định phân định biên giới trên biển để xây dựng khu vực Biển Đông hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển.
- Môi trường và tài nguyên biển đảo của Việt Nam là cơ sở cho phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp ở Biển Đông.
- Khu vực Đông Nam Á ổn định chính trị và an ninh tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Biển Đông.
b) Khó khăn
- Biển Đông có liên quan tới nhiều quốc gia, vẫn tồn tại vấn đề vi phạm chủ quyền và tranh chấp.
- Khai thác hải sản trái phép, hàng lậu, ô nhiễm môi trường gây suy giảm đa dạng sinh học.
- Môi trường sống trên các đảo khắc nghiệt, thiên tai và thời tiết xấu gây trở ngại cho phát triển kinh tế biển.
- Quá trình xác lập chủ quyền biển đảo của Việt Nam diễn ra từ sớm và liên tục cho đến ngày nay.
- Các chúa Nguyễn đã thành lập đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để thực thi chủ quyền tại quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa từ thế kỉ XVII.
- Thời Tây Sơn và đội Hoàng Sa tiếp tục khảo sát và khai thác sản vật biển.
- Dưới triều Nguyễn, các hoạt động xác lập chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được tiếp tục thực hiện.
- Sau Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền trên Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
- Hiệp định Ê-ly-dê ngày 8-3-1949, Pháp bắt đầu chuyển giao quyền kiểm soát hai quần đảo này cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam.
- Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Việt Nam Cộng hoà đã tiếp quản và khẳng định lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
- Tháng 1-1974, quân đội Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa đang thuộc sự quản lí của Việt Nam Cộng hoà.
- Từ sau năm 1975, Việt Nam tiếp tục thực hiện quyền quản lí hành chính và đấu tranh về pháp lí, ngoại giao để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.