Nội dung lý thuyết
- Châu thổ sông Hồng là một trong hai đồng bằng châu thổ lớn nhất ở nước ta.
- Diện tích của đồng bằng sông Hồng là khoảng 15 000 km, được hình thành chủ yếu do sự bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình trên vùng sụt lún thấp, rộng lớn.
- Châu thổ sông Hồng có dạng hình tam giác (tam giác châu) với đỉnh ở thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ), đáy là đường bờ biển từ thành phố Hải Phòng đến cửa sông Đáy thuộc huyện Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình).
- Quá trình bồi đắp châu thổ diễn ra thường xuyên, liên tục từ hàng nghìn năm trước.
- Cư dân châu thổ sông Hồng có nguồn gốc chủ yếu là người Việt cổ và di chuyển dần từ vùng trung du đến các vùng đồng bằng mới được bồi đắp dọc theo các triền sông ở vùng hạ du ven biển.
- Từ thời Lý, các công trình quai đê lấn biển, đắp đê trên các triền sông vùng hạ lưu đã làm cho quá trình hình thành và phát triển châu thổ diễn ra nhanh và có hiệu quả hơn.
- Hiện nay, trung bình mỗi năm châu thổ sông Hồng mở rộng ra biển khoảng 80 – 100 m.
- Châu thổ sông Hồng với điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu nóng ẩm, địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ) kết hợp cùng sự lao động cần cù, sáng tạo của con người, ngày càng mở rộng và trở thành nền văn minh lúa nước đặc sắc, lâu đời nhất ở Việt Nam.
- Châu thổ sông Cửu Long: đồng bằng rộng lớn nhất Việt Nam (40 000 km²)
- Bộ phận cuối hạ lưu châu thổ sông Mê Công
- Nguồn nước và phù sa dồi dào bồi đắp cánh đồng và đất mỡ
- Độ cao trung bình 2m so với mực nước biển, chịu ảnh hưởng thuỷ triều và nước biển xâm nhập
- Mở rộng ra biển ở các cửa sông và bán đảo Cà Mau (60-80m/năm)
- Người dân khai phá, cải tạo góp phần hình thành vùng đất trù phú này
- Địa hình phẳng, đất đai phì nhiêu, khí hậu điều hoà và hệ thống kênh rạch chằng chịt là điều kiện tự nhiên thuận lợi góp phần phát triển nền văn minh.
- Chế độ nước sông ở nước ta phụ thuộc chủ yếu vào chế độ khí hậu, với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa mưa và mùa khô rõ rệt.
- Chế độ nước sông của các dòng sông chính ở nước ta phân chia thành hai mùa: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ thường xảy ra vào thời kì mùa mưa, mùa cạn vào thời kì mùa khô.
- Sông Hồng là sông lớn của nước ta, chế độ nước có hai mùa rõ rệt.
- Mùa lũ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, chiếm 75-80% lượng nước cả năm, đỉnh lũ tháng 8, chiếm 21% lượng nước.
- Mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, cạn nhất là tháng 3.
- Sông Hồng có độ dốc lớn, mạng lưới sông hình nan quạt, hai phụ lưu chính là sông Đà và sông Lô.
- Lũ sông Hồng ở phần hạ lưu sông lên rất nhanh và thất thường, thời gian lũ kéo dài, ảnh hưởng lớn đến vùng đồng bằng châu thổ.
- Các nhà máy thuỷ điện trên sông Hồng (Hoà Bình, Sơn La, Thác Bà, Tuyên Quang) đã đi vào hoạt động, điều hoà chế độ nước sông Hồng ở vùng hạ lưu.
- Mực nước sông vào mùa lũ thấp hơn, mùa cạn được cung cấp bổ sung bằng lượng nước xả từ các hồ thuỷ điện.
- Sông Cửu Long là phần hạ lưu của sông Mê Công, có hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu.
- Chế độ nước sông Cửu Long có hai mùa: mùa lũ từ tháng 7 đến tháng 11, đỉnh lũ vào tháng 9 chiếm 75-80% lượng nước cả năm. Mùa cạn từ tháng 12/1 đến tháng 6, cạn nhất là tháng 3/4.
- Vào thời kì mùa lũ, nước sông tràn bờ, phủ ngập các vùng đất ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên.
- Chế độ nước sông Cửu Long được điều hoà bởi sự điều tiết nước của Biển Hồ Cam-pu-chia, độ dốc lòng sông nhỏ và đổ ra biển bằng nhiều cửa.
- Sông Cửu Long có lượng nước và phù sa dồi dào và chịu tác động mạnh của thuỷ triều.
- Cách đây hàng nghìn năm, người Việt đã khai khẩn và cải tạo vùng châu thổ sông Hồng để lập nghiệp, bao gồm lấn đất, đào kênh, xây công trình thuỷ lợi, mở rộng diện tích đồng bằng, đắp hàng nghìn km đê điều.
- Người dân đồng bằng sông Hồng đã thay đổi cơ cấu mùa vụ và xây dựng đê điều để hạn chế rủi ro từ mùa lũ sông.
- Nhiều công trình thuỷ nông được xây dựng để cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp trong mùa cạn.
- Đầu thế kỉ XVI, đồng bằng sông Cửu Long còn hoang vu. Nhưng từ cuối thế kỉ XVI đến đầu thế kỉ XVII, người Việt đã đến đây cư trú, khai phá vùng đất này bằng cách khai thác thuỷ hải sản, lâm sản, trồng lúa,...
- Đến thế kỉ XVIII, người Việt di cư đến đây sinh sống đã đông đúc hơn, hình thành những xóm làng trù phú, cánh đồng lúa rộng lớn và vườn cây trái xanh tốt. Họ còn đào nhiều kênh mới để dẫn nước tưới tiêu, làm đường giao thông, phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá,...
- Người dân ở đồng bằng sông Cửu Long đã thích ứng với điều kiện tự nhiên và tận dụng nguồn lợi thuỷ sản, nước ngọt và phù sa để tăng độ phì và cải tạo đất. Gần đây, họ đã áp dụng nhiều giải pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, bao gồm xây các đập ngăn mặn, da dạng cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lựa chọn các giống mới phù hợp và tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp.