Nội dung lý thuyết
- Do ảnh hưởng từ môi trường bên trong hoặc bên ngoài cơ thể, làm rối loạn quá trình nhân đôi của DNA dẫn đến sự biến đổi cấu trúc của gene.

- Sự biến đổi trong cấu trúc của gene được gọi là đột biến gene. Đột biến xảy ra liên quan đến một cặp nucleotide được gọi là đột biến điểm.
- Trong tự nhiên, tất cả các gene đều có khả năng đột biến nhưng với tần số thấp (nhỏ hơn 0,01%).
- Trong điều kiện nhân tạo, người ta có thể gây đột biến với tần số cao hơn nhiều lần để tạo ra các sản phẩm mong muốn. Ví dụ: tật sáu ngón tay ở người, hoa lan đột biến.

- Mặc dù tần số đột biến gene thấp nhưng số lượng gene trong tự nhiên rất lớn. Do đó, đột biến gene tạo nên các allele khác nhau cung cấp nguồn nguyên liệu phong phú cho quá trình tiến hoá.
- Trong trồng trọt, con người chủ động tạo ra các đột biến mong muốn để làm nguyên liệu cho quá trình chọn giống.
- Ví dụ: Người ta tạo ra các giống cây cảnh có hình thù kì lạ, các giống hoa lan đột biến gene phù hợp với thị hiếu người dùng, các giống lúa có khả năng chống chịu bệnh, ...
- Mức độ gây hại của gene đột biến phụ thuộc vào loại đột biến, tổ hợp gene hoặc phụ thuộc vào môi trường.
- Ví dụ: Đột biến gene thay thế một cặp nucleotide thường ít ảnh hưởng đến cấu trúc của gene hơn đột biến mất hoặc thêm một cặp nucleotide; đột biến gene lặn thường chỉ biểu hiện ở trạng thái tổ hợp gene đồng hợp; đột biến gene kháng thuốc trừ sâu ở côn trùng, trong điều kiện môi trường không có thuốc trừ sâu thì đột biến sẽ có hại, còn trong điều kiện môi trường có thuốc trừ sâu thì lại có lợi.
- Ví dụ: vịt ba chân, lợn dị dạng hai đầu; bệnh hồng cầu hình liễm, bệnh động kinh, bệnh mù màu, bệnh máu khó đông; bệnh bạch tạng; lúa bạch tạng, ...