Dương Ngọc Diệp
Xem chi tiết
Kậu...chủ...nhỏ...!!!
12 tháng 9 2021 lúc 21:05

tham khảo:

“Chúng ta đầy khiếm khuyết và sai lầm; hãy để chúng ta cùng tha thứ cho sự nực cười của nhau - đó là luật đầu tiên của tự nhiên” (Voltaire). Cuộc sống sẽ bớt đi những điều nực cười nếu bạn và tôi biết nuôi dưỡng cho mình lòng vị tha. Chỉ là một cái gật đầu chấp nhận lời xin lỗi, một nụ cười là một lời tha thứ sau lỗi lầm của người khác hay hi sinh vì lợi ích chung nhưng cũng đủ để xóa tan những sắc màu ma mị đang làm sầu não tâm hồn con người. Vị tha không đơn thuần là một đức tính tốt mà còn là liều thuốc chữa lành vết thương, là chìa khóa mở cánh cửa cơ hội hoàn thiện bản thân mà ta nên trao cho người đang cần. Trong lớp có học sinh học kém hơn, bạn không dè bỉu, xa lánh mà sẻ chia, giúp đỡ bạn mình học tốt. Trong tập thể có thành viên mắc lỗi, làm điều sai trái, bạn không lên án gay gắt mà ngược lại, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để giúp họ sửa sai. Chắc chắn cuộc sống chúng ta sẽ tươi đẹp hơn, tập thể vững mạnh hơn, đó cũng chính là cách bạn đang gieo trồng một hạt giống tốt lành cho tâm hồn nhân loại, cho quá trình trưởng thành của nhân cách một con người. Song vẫn còn không ít cá nhân nhỏ nhen, khép mình vào khuôn khổ của sự khắc nghiệt, như mảnh đất cằn cỗi chẳng bao giờ chịu nuôi dưỡng hạt giống nào. Giữa thế giới lung linh vạn ánh sáng nhân ái và khu vườn tăm tối với hơi thở của sự lạnh lùng, đâu sẽ là nơi hạnh phúc được lớn dần? Học cách tha thứ là học cách sống đẹp cho người và cho bản thân. Đó cũng là cách bạn tận hưởng và tận hiến giữa cuộc đời.

không có gì
Xem chi tiết
không có gì
Xem chi tiết
minh nguyet
24 tháng 12 2021 lúc 20:46

B- Tác phẩm trữ tình chỉ dùng lối trực tiếp bày tỏ tình cảm, cảm xúc.

Lê Phương Mai
24 tháng 12 2021 lúc 20:46

B

Trường Nguyễn Công
24 tháng 12 2021 lúc 20:50

B

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
25 tháng 2 2019 lúc 4:55

Đây là nhận định đúng. Người đọc cảm nhận được hình ảnh bà Tú với tình cảm yêu thương, quý trọng người vợ cùng những tâm sự của nhà thơ.

ð Đáp án cần chọn A

tamanh nguyen
Xem chi tiết
chung nguyễn
Xem chi tiết
Sona Trần
Xem chi tiết
Siêu Nhân Lê
3 tháng 11 2016 lúc 21:45

1.

Trước cánh mạng tháng tám nhân dân ta sống trong cảnh lầm than bần cùng thế nhưng những con người ấy vẫn hiện với những phẩm chất tốt đẹp cao cả. Cái đói kia ,lũ thực dân kia không thể làm mất đi vẻ đẹp tâm hồn trong con người họ. Và cú như thế họ bước vào trang văn với vẻ đẹp tâm hồn mình. Nêú Ngô Tất Tố đã thành công khi khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nghèo qua tác phẩm chị Dậu thì Nam Cao cũng góp phần giới thiệu thêm những mảnh đời nông dân khổ cực khác qua tác phẩm Lão Hạc. Đó là một ông lão gầy gò ,ốm yếu ngày đêm cố giữ lấy mảnh vườn để đợi con trai về.

Có thể nói hình ảnh người nông dân nghèo đói lầm than sống nơi bùn lầy nước đọng ,sống quay quắt cho qua ngày hay chính là đang cố gượng sống đã trở đi trở lại rất nhiều trong sáng tác của Nam Cao. Hình ảnh Lão Hạc là một trong số những tác phẩm ấy. Lão hiện lên chân thật đẹp đẽ với những tính cách của một người nông dân hiền lành chất phác. Nhưng thật trớ trêu khi xã hộ thực dân thối nát ấy đã nhẫn tâm cướp đi một con người như vậy. Đoạn trích Lão Hạc được trích trong truyện ngắn cùng tên nhưng có thể thấy đây là đoạn hay nhất. Đặc biệt nó thể hiện rõ vẻ đẹp trong tâm hồn của Lão Hạc.

phan tich ve dep lao hac trong truyen ngan cung ten cua nam cao

Trước tiên Lão Hạc hiện lên với vẻ đẹp của môt người nông dân hiền lanh chất phác- một bản chất thật thà đáng quý và tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam. Vợ lão mất sớm còn con trai của lão thì đi vào Nam làm phu một đồn điền cao su. Lão hằng ngày mong ngóng con trai mà chăng có tin tức gì. Dù nghèo khổ nhưng lão vẫn nhất quyết giữ lại mảnh vườn cho con trai của mình. Hằng ngày lão phải ăn dáy ,ăn củ chuối ,và cả sung muối để tích góp tiền đợi con trai lão trở về. Ông chỉ có mỗi con chó là cậu vàng để bầu bạn. Tuy nghèo nhưng lão vẫn không bao giờ làm hại ai ,không có kiểu bần quá hóa liều. Lão vẫn giữ phẩm chất thật thà của một người nông dân. Lão thà ăn những thứ tồi tệ nhất còn hơn làm điều trái với lương tâm.

Không chỉ thế Lão Hạc còn hiện lên với vẻ đẹp của một người sống tình nghĩa và giàu lòng tự trọng. Ở làng ông tin tưởng ông giáo nhất ,chuyện gì cũng kể cho ông giáo để xin ý kiến. Môi khi ông giáo ngỏ ý giúp đỡ thì lão đều không chấp nhận ,kể cả đến khi ông chết đi ông cũng không vay của ai một đồng nào. Điều đó cho thấy lòng tự trọng của lão rất lớn. Hơn thế lão cũng biết nhà ông giáo cũng chẳng có gì hơn lão cả ,ông giáo còn con còn vợ thì phải lo nhiều không thể để ông ấy bận tâm đến mình mà khổ vợ con ông ấy được.

Trong suốt quãng đời của lão nếu không có cậu vàng bên cạnh thì lão buồn chết mất. Ngày qua ngày lão chỉ làm bạn với nó mà thôi. Ông không đủ ăn nhưng cũng cố gắng gượng nuôi nó ,có những lúc không còn cái ăn lão khẽ thì thầm với nó và dường như nó cũng hiểu cho nỗi khổ của ông lão. nhưng rồi đên một ngày kia khi lão không đủ sức nuôi nó nữa ông quyết định bán nó đi. Quyết định thật không dễ dàng đối với ông chút nào. Làm sao ông có thể nhẹ nhàng thanh thản khi bán đi một người bạn suốt ngày bên cạnh lão. nhưng khổ thay lão không còn cách nào khác nữa. Hơn thế cậu vàng là kỉ niệm duy nhất về đứa con trai của ông. Ông bán đi cậu vàng rồi tủi thân sang nhà ông giáo để kể giãi bày. Nhìn bộ dạng lão đáng thương lắm “ cười mà như mếu ,đôi mắt ầng ậc nước ,mặt lão đột nhiên có rúm lại ,những nếp nhăn xô lại với nhau ,ép cho nước mắt chảy ra ,cái đẫu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít ,lão hu hu khóc”. Đây quả là một đoạn văn hay miêu tả tột bậc sự đau khổ khi mất đi con vàng ,khi mà chính bản thân ông đã không giữ lời hứa với một con chó. Một tâm trạng tự trách mình bao trùm đầy dằn vặt trong tâm can ông lão.

Lão Hạc là một người giàu tình yêu thương cao cả và đức hi sinh. Nếu bán đi mảnh vườn ấy có lẽ lão sẽ không phải lo gì đến cuối đời nữa nhưng ông không làm thế. Tất cả những gì ông phải chịu cốt là để đợi con trai của mình trở về tận tay giao cho nó mảnh vườn và ngôi nhà cũ kĩ ấy. lão giữ để lấy vợ cho con trai mình. Dù cho con trai lão có bạt vô âm tín không biết còn sống hay đã chết nhưng lão vẫn hy vọng vẫn mong ,và vẫn giữ mảnh vườn cho đến hơi thở cuối cùng. Ngay cả khi ông chết đi ,ong cũng gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phỏng khi ông chết và số còn lại là để khi con trai ông về thì nhờ ông giáo gửi giúp. Quả thật đức hy sinh cao cả ấy thật làm xúc động lòng người ,thật đáng trân trọng. Một tình cha cao “ như núi Thái Sơn” của một vị người cha già suốt một đời nghèo nàn nhưng không bao giờ chịu ung sướng mà quên đi con tai mình.

Lão Hạc chết đi trong đau đớn nhưng cái chết của lão mang một vẻ đẹp khó quên trong lòng người đọc. Phải chăng đó là cái chết bất tử với thời gian vì khi nhắc đến tên ông thì ông ai là người không biết cả. Ông đã tìm đêns bả chó ,tìm đến cái chết chấm dứt cuộc sống đau khổ này ,chấm dứt những dằn vặt mà ông đã gây ra cho cậu vàng và hơn thế nữa để không động đến số tiền mà ông đã dành dụm cho con trai mình. Ông chết di nhưng chính cái chết ấy là sự chứng minh ,là sự tổng kết vẻ đẹp trong con người nông dân nghèo ấy. Thật đáng thương cho cái chết thương tâm của lão. nhà văn Nam Cao đã miêu tả cái chết của lão như sau: “ tôi xồng xộc chạy vào ,lão Hạc đang vật vã ở trên giường ,đầu tóc rũ rượi ,quần áo xộc xệch ,hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo ,bọt mép sùi ra ,khắp người lại chốc chốc lại giật lên một cái ,nảy lên”. Tại sao lão lại chọn cái chết đâu đớn đến như vậy ,phải chăng lão đang tự trừng phạt mình? Lão trừng phạt mình vì đã bán đi cậu vàng ,trừng phạt mình đã để con trai bỏ đi mà không có cách nào ngăn cản. Nhưng qua cái chết hay sự trừng phạt bản thân của Lão Hạc ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn lão quả thật đáng quý biết bao ,người nông dân nghèo ấy ra đi để lại biết bao sự thương xót.

Có thể nói nhà văn Nam Cao đã đem đến cho chúng ta một bức chân dung của người nông dân già nua khắc khổ nhưng giàu tình thương mến. Lão không chỉ giàu tình nghĩa với người mà còn giàu tình nghĩa với con vật như cậu vàng. Vì cậu vàng giống như một người bạn của lão chứ không phải là con vật nuôi nữa. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình cùng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Nam Cao khắc họa lên vể đẹp của Lão Hạc ,một vẻ đẹp chất phác thật thà ,đôn hậu và giàu lòng tự trọng.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
5 tháng 9 2018 lúc 7:51

→ Kiều là nhân vật giàu tình yêu thương, có hiếu. Kiều vượt lên trên nỗi đau của bản thân để suy nghĩ cho người yêu, gia đình.

Hồ Trung Hợp
Xem chi tiết

Bài làm

Trong đoạn trích "Chị Em Thúy Kiều" củ Nguyễn Du, Kiều hiện là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp của Kiều được tác giả sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ "thu thủy", "xuân sơn", hoa, liễu để miêu tả mộ tuyệt thế giai nhân. Vẻ đẹp ấy được đặc tả qua đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó là một đôi mắt biết nói và có sức rung cảm lòng người. Hình ảnh ước lệ "làn thu thủy" là làn nước mùa thu gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh và linh hoạt. Còn "nét xuân sơn" có nghĩa là nét núi mùa xuân, tôn lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ dừng lại ở đó, câu thơ "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" cũng là hình ảnh làm nổi bật vẻ đẹp mĩ lệ của Kiều, vẻ đẹp hoàn mĩ và sắc sảo ấy có sức quyến rũ lạ lùng, khiến cho thiên nhiên không thể dễ dàng chịu thua, chịu nhường mà phải nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Đồng thời, qua chi tiết này, Nguyễn Du cũng ngầm báo hiệu số phận của Kiều sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Không chỉ mang một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Cái tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm, kì, thi họa. Đặc biệt nhất, tài đàn của nàng đã trở thành sở trường, năng khiếu vượt lên trên mọi người. Ở đây, tác giả đã đặc tả cái tài của Kiều để gợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn "bạc mệnh" mà Kiều tự sáng tác nghe thật da diết, buồn thương, nói lên tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, chỉ bằng mấy câu thơ trong đoạn trích, Nguyễn Du đã không chỉ miêu tả được vẻ đẹp hoàn mĩ và cái tài của Kiều mà còn dự báo trước được tương lai của nhân vật.

# Học tốt #

Khách vãng lai đã xóa

Bài làm

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã bị hắn lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà, do kiên quyết không chấp nhận cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh, Tú Bà đã quyết định cho Thúy Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Thông qua câu thơ đầu tiên, ta có thể xác định được vị trí và điểm nhìn của nàng Kiều, đó chính là trước lầu Ngưng Bích, đứng trông ra núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn, mênh mông trái ngược hoàn toàn với lầu Ngưng Bích. “Khóa xuân” ở đây ta có thể hiểu đó là một không gian khép kín, nơi có thể buộc chặt tự do, khóa chặt tuổi xuân của nàng Kiều. Mở ra trước tầm mắt của Kiều là vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người “Bốn bề bát ngát xa trông”.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Từ khi sống ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn tự suy ngẫm, dằn vặt về bản thân cũng như đau khổ trước những biến cố đã xảy ra với bản thân mình, thường trực trong nàng là tâm trạng xấu hổ buồn tủi trước sự ô nhục mà bản thân đã trải qua, cùng với đó là nỗi nhớ nhung da diết với chàng Kim. Thúy Kiều nhớ về lời thề nguyền dưới ánh trăng năm nào. Khi quyết định phá vỡ lời thề, Thúy Kiều vẫn chưa có cơ hội gặp lại chàng Kim để nói lời từ biệt, do vậy mà nàng luôn đau đáu trong lòng sự day dứt, đau khổ khi nghĩ về chàng Kim vẫn không hề hay biết mà chờ đợi nàng trong vô vọng.

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy năng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Cùng với nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ hướng về cha mẹ. Thúy Kiều đau xót khi nghĩ về cha mẹ đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn tựa cửa đợi con “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng đau khổ khi không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, không thể thực hiện bổn phận, trách nhiệm của một người con, quạt cho cha mẹ khi trời nóng, hay sưởi ấm chăn cho cha mẹ khi trời trở lạnh. Hình ảnh Sân Lai là một điển tích trong văn học cổ Trung Quốc, nói về người con có hiểu là Lai Tử người nước Sở thời xuân thu, tuy đã già những vẫn còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ vui lòng. Mượn hình ảnh Lai Từ vừa thể hiện được sự day dứt của Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.

“Buồn trông ngọn nước mới xa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Dù trong hoàn cảnh đau khổ nhất, Thúy Kiều cũng nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Đau khổ với những nỗi nhớ để khi quay về với thực tại thì nàng lại xót xa nhận ra sự bẽ bàng, đau khổ của bản thân. Như Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như đồng cảm với tâm trạng của nàng Kiều, cảnh vật cũng thấm đượm sự u buồn, không những thế nó còn dự báo về tương lai đầy bão tố của nàng trước mắt. Đó là hình ảnh ngọn nước mới xa, hình ảnh cánh hoa nổi trôi, là ngọn cỏ rầu rầu, là màu xanh của chân mây nhưng lại không gợi ra được sự sống.

Như vậy, qua đoạn trích Kiều ở lầu NGưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.

# Học tốt #

Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Dương
6 tháng 11 2019 lúc 20:52

Nguyễn Du là một trong những cây đại thụ của nền văn học dân tộc với nhiều áng văn bất hủ, nổi bật nhất trong số đó là kiệt tác "Truyện Kiều". Ra đời dựa trên cuốn tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, tuy nhiên, Nguyễn Du đã thổi một làn gió mới khiến cho một câu chuyện vốn tẻ nhạt trở nên hấp dẫn, sinh động và mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Trong số các nhân vật của mình, Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du khắc họa chân thực và sinh động nhất cả về vẻ đẹp lẫn tài năng. Qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" ta sẽ thấy rõ điều đó.

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm: "Gặp gỡ và đính ước". Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả là hai nàng "tố nga" - vừa thông minh lại xinh đẹp hiếm có trong thiên hạ. Hai chị em "mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười". Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã ngụ ý miêu tả vẻ đẹp của em gái Thúy Vân trước để làm đòn bẩy, làm nổi bật lên vẻ đẹp "phần hơn" của cô chị Thúy Kiều:

"Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn "

Nếu Thúy Vân được miêu tả là một cô gái "trang trọng khác vời" với "khuôn trăng đầy đặn" và "nét ngài nở nang" thì Thúy Kiều lại càng "sắc sảo mặn mà" hơn bội phần. Thúy Kiều có vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân, nghiêng nước nghiêng thành. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cầm, kỳ, thi, họa. Bởi vậy, so về "sắc" hay "tài" thì Kiều đều giỏi hơn Vân một phần. Câu thơ đầy ngụ ý, mở ra cho người đọc thấy được vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều.

Để làm nổi bật hình tượng nàng Kiều, đầu tiên, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp nhan sắc của nàng:

"Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng có hiệu quả trong việc khắc hoạ vẻ đẹp của Thuý Kiều. Khuôn mặt nàng là một khuôn mặt vô cùng thanh tú, được so sánh như làn nước mùa thu, như dáng núi mùa xuân. Nếu khi miêu tả nàng Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả từng chi tiết thì đến nàng Kiều, ông chỉ tập trung khắc họa đôi mắt xinh đẹp, biết nói của nàng. Đó là một đôi mắt xanh, biêng biếc như làn nước trong vắt của mùa thu cùng đôi lông mày thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy tuyệt đẹp, chất chứa bên trong là một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống. Nghệ thuật lấy điểm tả diện, tác giả chỉ cần đặc tả đôi mắt thôi cũng đủ để làm bật lên vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, trong sáng của cô tiểu thư đài các.

Chính vẻ đẹp vượt ra khỏi những nét đẹp chuẩn mực thông thường của người phụ nữ trong xã hội phong kiến của Kiều đã khiến cho "hoa ghen", "liễu hờn". Câu thơ như một lời dự báo của Nguyễn Du dành cho nàng. Có chăng, cuộc đời nàng Kiều sẽ gặp phải truân chuyên vì những kẻ mưu mô, hẹp hòi sẽ ghen, hờn với tài sắc "mười phân vẹn mười" của nàng? Nếu Thúy Vân có cuộc sống khiến vạn vật phải "thua", "nhường" thì Thúy Kiều lại trái ngược. Nó dự báo cho một cuộc đời đầy giông bão, trắc trở sắp ập đến với nàng.

Bằng đôi ba câu ngắn ngủi, Nguyễn Du đã dựng nên vẻ đẹp về ngoại hình của Kiều. Với nét vẽ của một người họa sĩ, ông đã vẽ lên bức họa chân dung nàng Kiều với vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt thế. Vẻ đẹp ấy hoàn mĩ như một bức tranh thuỷ mặc: Có núi, có trời, có sắc nước mùa thu.

Không chỉ trầm trồ bởi vẻ đẹp của nàng Kiều, người đọc lại càng ngưỡng mộ tài năng thiên bẩm của nàng:

"Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân"

Yêu thương Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả nàng bằng những mỹ từ. Nếu về sắc, nàng là số một thì về tài, không ai dám đứng thứ hai trước nàng. Nguyễn Du ca ngợi Thúy Kiều tột bậc, nàng là một trong số những mỹ nhân hiếm có trong thiên hạ, vừa có cả sắc, vừa có cả tài. Vốn sẵn tính thông minh, Thúy Kiều vừa "pha nghề thi họa" lại cũng "đủ mùi ca ngâm". Như vậy, cả bốn kỹ nghệ cầm - kỳ - thi - họa nàng đều thành thạo. Thế nhưng nổi bật nhất trong số đó là tài đánh đàn của nàng. Tiếng đàn ngân nga cất lên với "làu bậc ngũ âm" vô cùng thành thục và êm tai, thậm chí vượt xa những người con gái tài giỏi khác một bậc "ăn đứt hồ cầm một chương". Thử hỏi mấy ai trong thiên hạ có được tài đánh đàn khéo léo, uyển chuyển giống như nàng?

Tuy tài năng là vậy nhưng Nguyễn Du cũng ngầm dự báo số phận éo le của Kiều bởi bản nhạc mà nàng thường đánh là bản "Bạc mệnh" vô cùng "não nhân". Là một người con gái yêu kiều dịu dàng, thế nhưng nàng Kiều lại thường thích những bản nhạc u sầu, buồn bã. Điều đó như đã vận vào chính số mệnh của nàng. Bản bạc mệnh nàng đánh cho ai? Hay là đánh cho chính mình? Nàng không hề hay biết rằng, sắp tới nàng sẽ bước vào trang mới của cuộc đời cuộc đời với rất nhiều khổ đau và tủi nhục.

Như vậy, Nguyễn Du đã thành công phác họa bức chân dung của Thúy Kiều về cả sắc đẹp lẫn tài năng. Đó là một vẻ đẹp tuyệt mỹ khiến cho trời xanh đố kị, một tài năng vượt trội khiến cho ai cũng phải thán phục, trầm trồ. Thế nhưng, số phận nàng Kiều sẽ không thể tránh khỏi những truân chuyên như Nguyễn Du đã từng ca thán:

''Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.''

Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp con người, Nguyễn Du đã thành công khắc họa chân dung vẻ đẹp và tài năng của Kiều. Đặc biệt, tác giả sử dụng thành công thủ pháp đòn bẩy : Tả Thúy Vân trước để làm đòn bẩy nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Phải yêu thương nhân vật của mình thì ông mới có thể xây dựng được hình tượng nàng Kiều tuyệt đẹp, khiến bạn đọc phải trầm trồ đến vậy.

Đoạn thơ khép lại mang tới những dư âm sâu sắc trong lòng bạn đọc. Đó là dư âm về tài năng của Nguyễn Du, về ý nghĩa nhân sinh sâu sắc được chuyển tải trong những câu thơ. Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ là cảm hứng muôn đời, có ý nghĩa từ xa xưa cho đến hiện tại. Quả không sai khi người ta nhắc đến Nguyễn Du là "một tài năng lớn, một nhân cách lớn".

#Trang

Khách vãng lai đã xóa
Thư2302
Xem chi tiết