Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Nghiêm Đức Trung
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn hùng
Xem chi tiết
Giang Trần
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
16 tháng 8 2019 lúc 2:57

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.

- Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

- Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.

- Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.

Bùi Thị Minh Phương
Xem chi tiết
Phương Trâm
17 tháng 10 2016 lúc 21:18
Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du miều tả khung cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, ba chị em Kiều rủ nhau đi dạo chơi xuân. 

Kết cấu đoạn thơ theo trình tự thời gian. Bốn câu đầu tả cảnh mùa xuân. Tám câu tiếp tả tiết Thanh minh. Sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp được dệt nên bằng những hình ảnh tiêu biểu, từ ngữ chọn lọc và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Du:

  Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa . 

Thời gian thấm thoắt tựa thoi đưa. Vừa mới giêng, hai, nay đã bước sang tháng ba. Trên không trung bao la, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng.

 

Chỉ bằng hai câu: cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hòa tuyệt diệu của màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân.
Tám câu thơ tiếp theo tả khung cảnh lễ hội:

 Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Đầu tháng ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. Theo phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn. . Không khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về.
Quanh những ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giây, bày cỗ, thắp nến, đốt nhang khấn vái.., Khói bay nghi ngút, hương thơm tỏa ngát một vùng. Sự cách trở âm dương hầu như đã bị xóa nhòa. Người đã khuất và người còn sông giao hòa trong cõi tâm linh thiêng liêng, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của mùa xuân. Sáu câu thơ cuối tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về : Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. 

Khung cảnh vẫn mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân: nắng nhạt, khe suối nước trong veo, một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động đều hết sức nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tầy bước chân người chầm chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh.., Không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Những từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao đã nhuốm màu tầm trạng. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân mang lại cho mỗi người vừa mới đây thôi, vậy mà dường như Kiều đã linh cảm về một điều, gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Quả nhiên, dòng nước uốn quanh đã dẫn bước chân Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và tiếp sau đó, nàng sẽ gặp chàng thư sinh Kim Trọng có Phong tư tài mạo tuyệt vời.

  Qua đoạn trích, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình đế miêu tả cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà ông yêu quý. 
Đạt Trần
15 tháng 8 2018 lúc 20:47

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Tả cảnh ngụ tình đã trờ thành một nghệ thuật quen thuộc trong thơ Nguyễn Du. Bút pháp này đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình trong 6 câu thơ cuối đoạn trích "Cảnh Ngày Xuân".

Phần thân đoạn bạn phân tích theo các ý:
- Sáu câu thơ cuối đoạn trích miêu tả 1 bức tranh chiều xuân thật nên thơ, đượm buồn và cảnh chị em TK du xuân trở về. Bức tranh buổi chiều được miêu tả với nét đẹp dịu dàng, thanh nhẹ, nhuốm màu tâm trạng, bâng khuâng, xao xuyến mà con người thường có sau một cuộc vui và trong một buổi chiều tà

- Cảm nhận về bút pháp tả cảnh ngụ tình ở 6 câu cuối đoạn trích " Cảnh ngày xuân "
+ Bức tranh hoàng hôn buổi chiều tà qua ánh nhìn và tâm trạng của nàng Kiều hiện lên như thế nào?
Không gian xuân như thế nào ? (thu hẹp, tĩnh lặng hơn, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, chậm rãi) Cảnh xuân được gợi lên qua những hình ảnh ra sao? ( nhỏ bé: ngọn tiểu khê, dòng nc uốn quanh, nhịp cầu nho nhỏ...)
Phong cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả cảnh ngụ tình? ( "thanh thanh"> vẻ đẹp nhẹ nhàng, tĩnh lặng")
+ Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã gợi lên tâm trạng tiếc nuối, quyến luyến, thơ thẩn của chị em Thuý Kiều khi phải chia tay với hội xuân:
Phân tích các từ láy " tà tà", "thanh thanh", "nao nao", từ "thơ thẩn"
Bức tranh hoàng hôn gửi gắm tâm trạng gì của lòng người?
Phần này dựa vào bức tranh thiên nhiên để từ đó nói lên tâm trạng
* Ví dụ: Từ láy "nao nao" -> tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến và gợi linh cảm về một điều gì đó sắp xảy ra vào tương lai*

- Khái Quát: 6 câu thơ đã gợi lên 1 ko gian ntn? Tâm tư con người ntn? Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã được Nguyễn Du sử dụng ra sao? Gợi lên điều gì?

Đó là các ý mà mình viết ra để giúp bạn. Bạn dựa vào đó để sử dụng kỹ năng viết tạo lập đoạn văn hoàn chỉnh. Tất nhiên, phần cảm nhận bphap tả cảnh ngụ tình ko bắt buộc phải tách ra mà mình khuyên bạn nên ghép lại, từ bức tranh thiên nhiên rồi cảm nhận về tâm trạng con người. Lần sau nếu hỏi bài bạn nhớ bấm nút gửi câu hỏi đừng bấm tạo chủ đề nhé.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
5 tháng 5 2019 lúc 15:29

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.

Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.

Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.

Ivy Master
Xem chi tiết
nthv_.
21 tháng 9 2021 lúc 10:52

Tham khảo:

Nhắc đến tài năng của đại thi hào Nguyễn Du, mỗi người đã từng đọc truyện Kiều đều không thể không khâm phục tài năng của ông với những nét riêng truyền thống và cá tính sáng tạo trong lối viết đậm chất trữ tình. Những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến. Dưới ngòi bút của ông, những bức tranh về cảnh đời số phận của từng nhân vật đều hiện lên sống động, đều khiến độc giả cảm thông, giận hờn, yêu ghét theo từng vần thơ..Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú, nhất là tả cảnh ngụ tình. Chính nghệ thuật này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh ngụ tình mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật phụ ẩn chứa trong đó, như trong tám câu thơ cuối của đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh’
Ầm ầm tiếng sống kếu quanh ghế ngồi.”
Nếu đọc trên những dòng chữ, ta có thể thấy đây là đoạn thơ chỉ tả cảnh. Nhưng nếu dùng cảm xúc và suy nghĩ của mình, đọc giữa nhưng dòng chữ thì ta lại nhìn thấu tâm trạng của Kiều mà Nguyễn Du gửi gắm đến người đọc bằng lối kể chuyện nửa trực tiếp. Nghệ thuật của ông là mang cái gì rộng lớn mênh mông, để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé. Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng nhớ tới quê hương, tới thân phận bọt bèo không định hướng, tới tương lai u tối, đáng sợ với đầy rẫy những cạm bẫy rình rập của mình. Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn, của cây cỏ, của trăng và của nước. Đó là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng, một yếu tố nhấn cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được mảng chính và mảng phụ. Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”:
”Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la- màu xanh non mới mẻ, tinh khôi, đầy sức sống; dưới bầu trời mênh mông với màu xanh khoáng đạt, trong trẻo; nổi những bông hoa lê trắng tinh- màu trắng nhẹ nhàng, thanh khiết. Chỉ có hai màu xanh và trắng, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh hài hoà đến tuyệt diệu, dù không rực rỡ nhưng vẫn hết sức vui tươi, thể hiện tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong buổi du xuân. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “ cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát , nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được. Chữ điểm làm cảnh vật có hồn chứ không tĩnh tại. Cũng trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một lối tả cảnh ngụ tình khác nữa. Nguyễn Du vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Nói một cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Ví dụ như đoạn thơ cuối trong “cảnh ngày xuân”:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Nguyễn Du không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên theo bước đi của thơi gian mà còn nhuộm màu tâm trạng đó là tâm trạng của chị em Kiều lúc này, tất cả đều lắng xuống, chơi vơi trong một trạng thái mơ hồ nhưng có thực. Nó là nỗi bâng khuâng, man mác nuối tiếc. Ngay ở câu đầu thôi, chúng ta đã nhìn thấy được cảnh vật trở nên trầm buồn hơn vào buổi chiều tà. Chị em Kiều du xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn. Nguyễn Du dùng hai chữ “tà tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật. Dường như con người cũng chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Ở câu thơ tiếp đó, tác giả miêu tả hành động, tâm trạng của hai chị em cũng bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, “dan tay” tưởng là vui nhưng thực chất là chia sẻ cái buồn không nói hết. Không gian không còn cái bát ngát, trong sáng mà đang nhẹ dần, lặng dần. “Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu. Thực ...

Có thể bạn quan tâm sự tác giả đã làm nhịp thơ dường như chậm hẳn lại. Cách dùng từ như thế này biểu hiện tài hoa và khéo léo của Nguyễn Du khi lấy đà để chuyển ý của câu chuyện sang một cảnh mới với mối tâm trạng mới của nhân vật: Cảnh chị em Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên sau đó.
      Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cánh hoa, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn. Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người”. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm truyện thơ nôm hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.

Nguyễn Thị Hương
Xem chi tiết
Đỗ Hà My
5 tháng 11 2021 lúc 10:12

Có nhưng ít

Trần Đức Minh
Xem chi tiết
Flower in Tree
16 tháng 12 2021 lúc 21:39

Trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh một “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính là một Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà da diết, thấm sâu.

Với một số lượng ít ỏi tác phẩm còn lại đến ngày nay nhưng thơ Bà Huyện có sức ám ảnh, day dứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ,... bài thơ Qua Đèo Ngang xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà. Sau khi cảm nhận toàn bộ tác phẩm, có thể thấy rằng hai câu.

Khách vãng lai đã xóa
Trần Đức Minh
Xem chi tiết
Hà Phan Hoàng	Phúc
16 tháng 12 2021 lúc 21:41

Trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh một “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính là một Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà da diết, thấm sâu.

Với một số lượng ít ỏi tác phẩm còn lại đến ngày nay nhưng thơ Bà Huyện có sức ám ảnh, day dứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ,... bài thơ Qua Đèo Ngang xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà. Sau khi cảm nhận toàn bộ tác phẩm, có thể thấy rằng hai câu.

Khách vãng lai đã xóa