Trình bày cản nhận của em về lời Trao Duyên của TK (12 câu )
Viết khoảng 10 câu nêu cảm nhận của em về bài trao duyên
Tham khảo:
Nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả bạn bè quốc tế, không ai không biết đến "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du. 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm vào lòng người, rung động cả thời gian. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, trai tài gái sắc đem lòng cảm mến. Một đêm trăng thanh đã định ra lời thề nguyền. Song Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột. Biến cố cũng bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì làm tròn chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình tốt đẹp với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không bao lâu, Kiều không thể thực hiện được. Vào đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải "nhờ" mà là "cậy". "Cậy" vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.
Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà "mặc em" quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.
Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
"Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”
Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. "Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.
Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.
Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan"
Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết. Nàng tự nhận mình bạc mệnh, nghĩ đến cả tình cảnh mình chết đi. Dù phải đến một thế giới khác, dù không thể trở lại cuộc sống bình thường và số phận mong manh. Kiều vẫn không hề thanh thản mà còn nặng lòng hơn với tình duyên, canh cánh vẫy vùng trong sự bất lực thác oan, đau đớn.
Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận từ bỏ đoạn tình cảm tốt đẹp này, cắt đứt mối liên hệ với chàng Kim. Vậy nên, khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, linh hồn của nàng dường như cũng đánh mất. Nỗi đau đớn bấy giờ không kìm nén nỗi mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Dù do tình cảnh ép buộc, dù do sóng gió tai ương bất ngờ ập đến. Nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phục chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Mọi bi kịch, mọi khổ đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dường như đã lên đến đỉnh điểm. Song, chúng ta vẫn nghe thấy trong đó cả tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng cô gái trọng nghĩa tình.
"Trao duyên" là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ muôn vàn xót xa của Thúy Kiều. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Đồng thời, đại thi hào Nguyễn Du cũng thể hiện được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ là tấm lòng đồng cảm xót thương, Nguyễn Du còn dường như hóa thân thành nhân vật để tự trải lòng. Nội tâm Thúy Kiều nhờ đó được tái hiện vô cùng toàn diện. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.
Có thể nói, đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát và các biện pháp tu từ. Đặc biệt qua các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Từ đó làm nổi bật hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa. Đoạn trích không chỉ làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Mà còn thể hiện cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương và sự cảm thông của Nguyễn Du dành cho nhân vật.
Đoạn trích "Trao duyên" với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy thực sự đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực hơn về thời đại. Thời đại đồng tiền có thể chà đạp số phận con người, băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Để rồi rất nhiều năm qua đi, người ta vẫn nhớ mãi tác phẩm mang đầy giá trị nhân đạo "Truyện Kiều".
cảm nhận của anh(chị) về 12 câu sau của đoạn trao duyên. Mai thi rồi mong các bạn jup
Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích "Trao duyên" đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Đặc biệt 12 câu thơ đầu như tiếng nấc uất nghẹn ngào:
"Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ "cậy" được sử dụng thật đặc sắc, là "cậy" chứ không phải "nhờ", người được "cậy" khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải "chịu lời". Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như "thưa, lạy". Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
"Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai"
Bài Cảm nhận về 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên hay nhất
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất "đắt". Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ "đơm hoa kết trái", mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"
"Gánh tương tư" là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại "đứt gánh" còn đâu. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải "chắp mối tơ thừa" của mình. Từ "mặc" sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề"
Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
TK
Đại thi hào Nguyễn Du - một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích "Trao duyên" đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Đặc biệt 12 câu thơ đầu như tiếng nấc uất nghẹn ngào:
"Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ "cậy" được sử dụng thật đặc sắc, là "cậy" chứ không phải "nhờ", người được "cậy" khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải "chịu lời". Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như "thưa, lạy". Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
"Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai"
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất "đắt". Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ "đơm hoa kết trái", mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"
"Gánh tương tư" là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại "đứt gánh" còn đâu. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải "chắp mối tơ thừa" của mình. Từ "mặc" sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề"
Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
Trong 2 câu đầu của bài"Trao duyên" ,em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ của tác giả
tham khảo
Lời nói
+ “Cậy”: Đồng nghĩa với “nhờ” nhưng “cậy” còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi, tin tưởng về sự giúp đỡ đó.
+ “Chịu lời”: Đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn bao hàm sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc không đồng ý, còn “chịu lời” thì bắt buộc phải chấp nhận, không thể từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ, nài ép của người nhờ cậy.
- Hành động: “Lạy, thưa”
+ Là hành động của người bề dưới với người bề trên, nhưng ở đây Kiều là chị lại lạy, thưa em mình.
+ Đây là hành động bất thường nhưng lại hoàn toàn bình thường trong hoàn cảnh này bởi hành động của Kiều là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường, hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn hợp lí
=> Hành động bất thường đặt trong mối quan hệ với các từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều.
- Hoàn cảnh đặc biệt của Kiều:
+ Thúy Kiều phải tha thiết cầu xin Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Kiều biết rằng việc mình đang nhờ Vân ảnh hưởng lớn đến cuộc đời em sau này bởi Thúy Vân và Kim Trọng không có tình yêu.
+ Tâm trạng của Kiều đau khổ, tuyệt vọng bởi người ta có thể trao cho nhau kỉ niệm, đồ vật chứ không ai đi trao đi tình yêu của mình.
Viết đoạn văn tổng - phân - hợp khoảng 12 câu trình bày cảm nhận của em về những câu thơ em vừa chép. Trong đoạn văn có sử dụng lời dẫn trực tiếp (chỉ rõ).
Bằng một đoạn thơ khoảng 12 câu theo phương thức Diễn dịch, em hãy trình bày cảm nhận của mình về khổ thơ vừa chép. Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và lời dẫn trực tiếp.
Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.
- Khổ thơ 1: Cảnh ra khơi trong buổi chiều hoàng hôn huy hoàng, tráng lệ và giàu sức sống.
Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa+ Điểm nhìn của nhà thơ: giữa biển khơi bao la.
+ Tác giả cảm nhận độc đáo về hình ảnh mặt trời qua biện pháp nhân hóa, so sánh đặc sắc khiến cảnh biển vào đêm đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại, nhưng gần gũi, thân quen.
+ Câu thơ khiến ta hình dung cả đoàn thuyền chứ không phải con thuyền đơn độc ra khơi.
+ Từ “lại” diễn tả công việc lao động thường ngày, nhịp lao động trở nên tuần hoàn.
+ “Câu hát căng buồm với gió khơi”: khí thế lao động phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền cũng như sức mạnh lao động làm chủ cuộc đời và biển khơi.
- Phân tích khổ thơ thứ 2:
+ Gợi sự giàu có của biển cả: cá bạc, đoàn thoi.
+ Những hình ảnh so sánh đẹp đẽ, nên thơ.
+ Hình ảnh nhân hóa “dệt” thể hiện sự giàu có.
+ Từ “ta” đầy hào hứng, tự hào không còn cái “tôi” nhỏ bé đơn độc, u buồn nữa.
→ Sự giàu có trù phú của biển cả hứa hẹn ngày ra khơi nhiều thành quả.
Hình ảnh nói quá “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”.
+ Con thuyền lúc này có gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm → gợi sự nhịp nhàng, hòa quyện.
+ Gợi sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài.
→ Tầm vóc của con người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập với tự nhiên và vũ trụ rộng lớn, kì vĩ.
Con người không còn cảm giác nhỏ bé, lẻ loi, yếu ớt nữa mà trở nên hào hứng, vui tươi trong lao động làm nên sự đổi mới của cuộc đời.
Bằng một đoạn thơ khoảng 12 câu theo phương thức Diễn dịch, em hãy trình bày cảm nhận của mình về khổ thơ vừa chép. Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và lời dẫn trực tiếp.
Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.
- Khổ thơ 1: Cảnh ra khơi trong buổi chiều hoàng hôn huy hoàng, tráng lệ và giàu sức sống.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
+ Điểm nhìn của nhà thơ: giữa biển khơi bao la.
+ Tác giả cảm nhận độc đáo về hình ảnh mặt trời qua biện pháp nhân hóa, so sánh đặc sắc khiến cảnh biển vào đêm đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại, nhưng gần gũi, thân quen.
+ Câu thơ khiến ta hình dung cả đoàn thuyền chứ không phải con thuyền đơn độc ra khơi.
+ Từ “lại” diễn tả công việc lao động thường ngày, nhịp lao động trở nên tuần hoàn.
+ “Câu hát căng buồm với gió khơi”: khí thế lao động phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền cũng như sức mạnh lao động làm chủ cuộc đời và biển khơi.
- Phân tích khổ thơ thứ 2:
+ Gợi sự giàu có của biển cả: cá bạc, đoàn thoi.
+ Những hình ảnh so sánh đẹp đẽ, nên thơ.
+ Hình ảnh nhân hóa “dệt” thể hiện sự giàu có.
+ Từ “ta” đầy hào hứng, tự hào không còn cái “tôi” nhỏ bé đơn độc, u buồn nữa.
→ Sự giàu có trù phú của biển cả hứa hẹn ngày ra khơi nhiều thành quả.
Hình ảnh nói quá “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”.
+ Con thuyền lúc này có gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm → gợi sự nhịp nhàng, hòa quyện.
+ Gợi sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài.
→ Tầm vóc của con người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập với tự nhiên và vũ trụ rộng lớn, kì vĩ.
Con người không còn cảm giác nhỏ bé, lẻ loi, yếu ớt nữa mà trở nên hào hứng, vui tươi trong lao động làm nên sự đổi mới của cuộc đời.
Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 7-10 câu) nêu cảm nhận của anh/chị về nỗi lòng, tâm trạng của Kiều khi phải trao duyên cho em
,Bằng 1 đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức diễn dịch, em hãy trình bày cảm nhận của mình về khổ thơ "Đoàn thuyền đánh cá"vừa chép. Đoạn văn có sd câu cảm thán và lời dẫn trực tiếp
tham khảo:
Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.
- Khổ thơ 1: Cảnh ra khơi trong buổi chiều hoàng hôn huy hoàng, tráng lệ và giàu sức sống.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
+ Điểm nhìn của nhà thơ: giữa biển khơi bao la.
+ Tác giả cảm nhận độc đáo về hình ảnh mặt trời qua biện pháp nhân hóa, so sánh đặc sắc khiến cảnh biển vào đêm đẹp, kì vĩ, tráng lệ như thần thoại, nhưng gần gũi, thân quen.
+ Câu thơ khiến ta hình dung cả đoàn thuyền chứ không phải con thuyền đơn độc ra khơi.
+ Từ “lại” diễn tả công việc lao động thường ngày, nhịp lao động trở nên tuần hoàn.
+ “Câu hát căng buồm với gió khơi”: khí thế lao động phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền cũng như sức mạnh lao động làm chủ cuộc đời và biển khơi.
- Phân tích khổ thơ thứ 2:
+ Gợi sự giàu có của biển cả: cá bạc, đoàn thoi.
+ Những hình ảnh so sánh đẹp đẽ, nên thơ.
+ Hình ảnh nhân hóa “dệt” thể hiện sự giàu có.
+ Từ “ta” đầy hào hứng, tự hào không còn cái “tôi” nhỏ bé đơn độc, u buồn nữa.
→ Sự giàu có trù phú của biển cả hứa hẹn ngày ra khơi nhiều thành quả.
Hình ảnh nói quá “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”.
+ Con thuyền lúc này có gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm → gợi sự nhịp nhàng, hòa quyện.
+ Gợi sự khéo léo như nghệ sĩ của người dân chài.
→ Tầm vóc của con người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập với tự nhiên và vũ trụ rộng lớn, kì vĩ.
Con người không còn cảm giác nhỏ bé, lẻ loi, yếu ớt nữa mà trở nên hào hứng, vui tươi trong lao động làm nên sự đổi mới của cuộc đời.
Viết đoạn văn quy nạp trình bày cảm nhận của em về câu thơ đầu '' khi con tu hú '' 12 câu
Trái ngược với hoàn cảnh tù đày khốn khổ của người tù cách mạng, bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên chân thực bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên bắt đầu bắng câu thơ:"Khi con tu hú gọi bầy". Tương tự như trong thơ xưa, các nhà thơ, nhà văn thường dùng những hình ảnh chọn lọc để tạo được nét chấm phá, gợi tả vô cùng đặc sắc trong tác phẩm của mình ("Một tiếng chim kêu sáng cả rừng, Tiếng hát trong như tiếng hát xa"). Nhà thơ Tố Hữu đã bắt đầu bằng tiếng chim tu hút gọi bầy gây ấn tượng cho người đọc và đây là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Những hình ảnh thiên nhiên được tác giả chọn lọc vô cùng đẹp như: lúa chiêm, trái cây và chúng đều đang ở trạng thái "đang chín, ngọt dần". Những hình ảnh thơ tiếp theo như "vườn râm, ve ngân, bắp rây, nắng đào, trời xanh và sáo diều bay bổng". Bức tranh thiên nhiên được vẽ nên là bức tranh hoàn hảo, tuyệt đẹp,có sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp. Ôi, người đọc như cảm tưởng được âm thanh của tiếng chim tu hú, và tiếng ve ngân cũng như thấy được màu sắc của lúa chiêm đang chín vàng, trái cây đang chín dần, màu xanh tươi tốt của vườn râm, màu đào của nắng và màu vàng rực của ngô. Hình ảnh sáo diều trên trời không những là hình ảnh tượng trưng cho sự tự do và hạnh phúc mà nó trái ngược hoàn toàn với hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ. Hơn nữa, bức tranh thiên nhiên này có thể là bức tranh thiên trong tưởng tượng hoặc là hồi tưởng những ngày còn được tự do của nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên chính là bản lề của khát khao được tự do, thoát khỏi chốn ngục tù của nhà thơ. Tóm lại, bức tranh thiên nhiên mùa hè đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động trong 6 câu thơ đầu bài thơ "Khi con tu hú".