Viết 1 đoạn văn quy nạp khoảng 10-12 câu để làm sáng tỏ câu chủ đề: Chiếu dời đô có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình. Trong đó có 1 câu nghi vấn và 1 câu phủ định
Viết đoạn văn diễn dịch làm rõ luận điểm: “Chiếu dời đô” có sức thuyết phục lớn bởi sự kết hợp giữa lí và tình. Trong đoạn có sử dụng một câu phủ định và một câu cảm thán (gạch chân và chú thích rõ).
Viết 1 đoạn văn diễn dịch làm rõ luận điểm sau:Chiếu dời đo có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình. Gạch chân, chỉ rõ 1 câu phủ định, 1 câu cảm thán.
Chiếu dời đô có sức thuyết phục lớn vì đã kết hợp được cả lí và tình
Về lí, bài chiếu có một trình tự lập luận chặt chẽ: "Trong lịch sử đã từng có chuyện dời đô và đã đem lại kết quả tốt đẹp. Người xưa đã vâng theo mệnh trời, việc dời đô là hợp lòng dân. Soi vào thực tế, hai triều đại Đinh, Lê không chịu dời đô nên hậu quả là triều đại ngắn ngủi, đất nước không phát triển, người dân khốn cùng". Từ đây đi tới kết luận: "Khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để dời dô. Đây là nơi thuận lợi nhiều mặt: địa lí, chính trị, văn hóa...".
Về tình, bài chiếu được viết bằng một tình cảm chân thành. Lí Công uẩn không đưa ra mệnh lệnh mà đặt câu hỏi: "Các khanh nghĩ thế nào?". Câu hỏi có tính chất tâm tình, như là một sự trao đổi, bàn bạc, đối thoại. Bằng cách này, ông đã tạo được sự đồng cảm giữa vua và thần dân.
Theo vb chiếu dời đô vt đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức quy nạp làm rõ lí do vì sao Lý Công Uẩn phải dời đô từ Hoa lư (Ninh Bình) ra thành Đại la đoạn văn có sdung phép liên kết nối và câu nghi vấn ko dùng để hỏi ( gạch chân,chú thích rõ)
Có một số gợi ý ở phần nội dung nha:
- Trong bài Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn với khát vọng dời đô, mong muốn đất nước phát triển trong thời bình không còn giặc giã qua đó thể hiện ý chí độc lập tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt ta.
- Tác giả nêu lên dẫn chứng về các lần dời đô thời Tam đại của Trung Quốc, rồi qua đó phê phán hai triều Đinh, Lê khinh thường mệnh trời, theo ý riêng mình mà cứ đóng đô ở Hoa Lư.
- Đưa ra những tác hại của việc không chịu dời đô của hai nhà Đinh, Lê và tỏ lòng đau xót: "Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi".
- Đưa ra những thuận lợi của Đại La: "Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rồng mà bằng; đất cao mà thoáng".
- Chỉ ra những lợi ích cho người dân: "Dân chúng khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi".
- Kết thúc bài văn bằng một câu hỏi thân tình "Các khanh nghĩ thế nào?", nhà vua đã khiến bài chiếu này trở thành một văn bản bàn luận, hỏi ý kiến của quần thần chứ không còn là một mệnh lệnh nữa, điều đó phần nào đã xích nhà vua lại gần quần thần, khiến cho văn bản lại càng tăng tính thuyết phục hơn.
=> Từ đó, nhà vua chứng minh việc dời đô đã là một việc làm đúng đắn, không chỉ là trong lịch sử, mà sau này, Thăng Long Hà Nội vẫn còn là thủ đô của Việt Nam.
Từ vb "Chiếu dời đô",viết đoạn văn khoảng 10 câu theo cách quy nạp có sử dụng câu phủ định vs câu chủ đề:"Thành Đại La là kinh đô bậc nhất của Đế Vương muôn đời".Trong đoạn có sử dụng câu cảm thán (chú thích rõ)
tham khảo
Đại La là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Thật vậy, vua Lý Công Uẩn với tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng yêu nước thương dân của mình từ sớm đã nhận ra mảnh đất của cố đô Hoa Lư không còn phù hợp cho đất nước ta sinh sống và phát triển nữa. Đầu tiên, mảnh đất Đại La là mảnh đất có thế đất đẹp.Trong văn bản Chiếu dời đô, vua Lý Công Uẩn đã chỉ ra kinh thành Đại La là nơi "ở vào trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi". Với những chứng cứ vô cùng thuyết phục như vậy, vua Lý Công Uẩn đã chỉ ra được đây chính là mảnh đất dành cho những bậc đế vương vì thế đất đạt đến độ lý tưởng theo phong thủy của nước ta. Thứ hai, kinh thành Đại La là mảnh đất thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi, lại ít thiên tai. Ngày trước, vào triều đại nhà Đinh Trần, nước ta phải đóng đô ở kinh thành Hoa Lư vì nơi đó núi non hiểm trở, thuận tiện cho việc tấn công và phòng thủ của nước ta trong trận chiến chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, nếu như cứ đóng đô ở Hoa Lư thì nhân dân sẽ chẳng thể trồng trọt và canh tác nông nghiệp được. Chính vì vậy, mảnh đất Hoa Lư đất cao mà rộng bằng phẳng, màu mỡ thì sẽ thuận lợi cho nông nghiệp và trồng trọt, tránh được ngập lụt làm khổ nhân dân. Bên cạnh đó, khung cnarh thiên nhiên của Đại La cũng rất tốt tươi và phong phú. Chính vì vậy, nhà vua đã kết luận đây chính là thắng địa của đất nước, là nơi hội tụ trọng yếu của 4 phương đất nước. Chao ôi, quả là một vị vua anh minh sáng suốt làm sao! Tóm lại, kinh thành Đại La chính là kinh thành bậc nhất của đế vương muôn đời
Chứng minh Chiếu dời đô có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình.
Chiếc dời đô là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi nó có sự kết hợp giữa lý và tình.
- Thứ tự trình bày lập luận:
+ Dẫn sử các triều đại lớn từng dời đô trở nên hưng thịnh, bền vững.
+ Đối chiếu với thực trạng hai nhà Đinh, Lê khi đóng đô ở Hoa Lư.
+ Đưa ra những ưu điểm về mặt địa hình và điều kiện tự nhiên của thành Đại La.
→ Tất cả những lý lẽ trên để đi tới kết luận việc dời đô là cần thiết, hợp đạo lý.
- Yếu tố về tình cảm:
+ Dời đô nghĩa là thuận theo ý trời, noi gương lịch sử.
+ Mục đích triều đại được trường tồn, trăm họ không hao tổn.
+ Tác giả bộc lộ sự thương xót cho trăm họ dưới triều Đinh, Lê.
+ Tôn trọng ý kiến của bề tôi – "Các khanh nghĩ thế nào?".
→ Ý vua sáng suốt hợp lòng dân,thuận ý triều thần, vì thế được mọi người ủng hộ, hưởng ứng.
Chứng minh “Chiếu dời đô” có sức thuyết phục lớn bởi có sự kết hợp giữa lí và tình.
Trình tự lập luận cho việc cần thiết phải dời đô:
- Nêu sử sách bên Trung Quốc làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lý lẽ.
- Soi tiền đề vào thực tế của hai triều đại Đinh, Lê để chỉ rõ thực tế ấy không còn thích hợp với sự phát triển của đất nước, cần thiết phải dời đô.
- Đi tới kết luận: Khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để chọn làm Kinh Đô.
Đây là lời ban bố mệnh lệnh nhưng lại có những đoạn bày tỏ nỗi lòng, có những lời như đối thoại, trao đổi. Ví như "Trẫm rất đau xót về việc đó", đặc biệt là hai câu cuối bài chiếu tại tính chất đối thoại và trao đổi chứ không phải là tính chất đơn thoại, một chiều của người trên ban bố cho kẻ dưới. Và vì thế, lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân, ai ai cũng xúc động.
Viết 1 đoạn văn khoảng 10 câu làm sáng tỏ luận điểm: "Chiếu dời đô" đã nói lên sự cần thiết phải dời đô đến kinh đô mới (theo cách quy nạp)
Câu 3: "Chiếu dời đô" có sự kết hợp giữa hai yếu tố lí và tình. Hãy viết một đoạn văn khoảng nửa trang giấy thi để chứng minh điều đó. Trong đoạn văn có sử dụng câu trần thuật dùng để kể, tả và bộc lộ cảm xúc.
hãy viết 1 đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu để cm Lão Hạc là người giàu tình yêu thương (yêu con, yêu cậu vàng) trong đó có sd 1 tình thái từ nghi vấn và 1 câu chủ động
Em tham khảo nhé:
Nguồn: Hoidap247
Trong bài Lão Hạc, tình yêu thương con của lão Hạc đã được nhà văn Nam Cao phát hiện và khắc họa vô cùng thành công trong tác phẩm Lão Hạc của mình. Thứ nhất, vì quá yêu thương con nên lão luôn mang cảm giác ân hận khi không lo nổi cưới xin cho con. Vợ lão mất sớm nên lão phải gà trống nuôi con. Tuy nhiên do nhà gái thách cưới quá cao nên lão không lo nổi, người con gái bỏ con lão cưới người khác. Anh con trai vì thế mà phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Lão vì quá thương con nhưng cũng chẳng biết làm thế nào, dù cho biết đồn điền cao su khó khăn hiểm trở nhưng lão cũng không dám ngăn con. Thứ hai, tình yêu thương con của lão được thể hiện ở việc lão chăm sóc cậu Vàng cẩn thận chu đáo. Phải chăng cậu Vàng là kỷ vật duy nhất mà con trai lão để lại nên bao nhiên tình yêu thương lão dành hết cho nó?(Câu nghi vấn). Chao ôi, lão gọi nó là "cậu" như người với nhau, cho nó ăn trong bát, trò chuyện với nó như những người bạn, rồi tắm cho nó. Tất cả đều là vì lão yêu thương con trai lão quá nhiều. Thứ ba, vì quá yêu thương con nên lão lại lần nữa chịu đau đớn về tinh thần để bán cậu Vàng do cuộc sống quá khó khăn. Lão đau khổ tột cùng, lão cảm thấy như cậu Vàng bị mình lừa. Tất cả đều là vì lão muốn dành tiền cho con sau này trở về. Thứ tư, biểu hiện của tình yêu thương con của lão còn được thể hiện ở chỗ lão nhờ ông giáo lo toan mọi thứ còn lại còn mình thì tìm đến cái chết để bảo toàn số tiền cho con. Lão đã dành hết tình yêu thương của mình cho con.(Câu chủ động) Khi cuộc sống quá đỗi bế tắc, lão không thể làm gì khác để bảo toàn tài sản cho con ngoài việc tìm đến cái chết đau đớn. Chỉ khi lão chết rồi thì lão mới không ăn tiêu vào tiền để dành cho con. Lão chính là người cha trước khi chết đã lo chu toàn mọi thứ cho con mình, quyết giữ lòng tự trọng trọn vẹn. Tóm lại, lão Hạc là người cha yêu thương con, giàu đức hy sinh và lòng tự trọng.