Viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận của em về Vua Hùng trong truyện : Hùng Vương chọn đất đóng đô
Em hãy viết một đoạn văn ngắn trình bày cảm nghĩ của em về công lao của các Vua Hùng và truyền thống dân tộc qua Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
Tham khảo:
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước. Đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Nêu cảm nghĩ của em về văn bản " Vua Hùng chọn đất đóng đô"
Nêu cảm nghĩ của em về văn bản " Vua Hùng chọn đất đóng đô"
TK:
Mảnh đất đầu tiên vua Hùng đặt chân tới, phong cảnh khá đẹp. Đất phẳng lại rộng, có nhiều khe suối. Nhưng sau khi ngắm kỹ, vua cho rằng thế đất vẫn chưa phải là được, bèn sai chim Đại Bàng đắp thêm 100 quả gò. Vua lệnh cho chim Đại Bàng phải làm xong trước khi mặt trời mọc. Chim Đại Bàng đem hết sức mình ra thực hiện lệnh của vua. Quả gò thứ 99 vừa xong chỉ còn 01 quả nữa là hoàn thành công việc thì bỗng có tiếng gà rừng gáy, chim Đại Bàng ngỡ là trời đã sáng, vỗ cánh bay đi. Thế là không đúng ý, vua Hùng bỏ đi tìm đất khác. Đó chính là xã Thanh Vân, huyện Thanh Ba (Phú Thọ) ngày nay.
Văn bản 1 :
HÙNG VƯƠNG CHỌN ĐẤT ĐÓNG ĐÔ
Vua Hùng đi nhiều nơi để tìm đất đóng đô của nước Văn Lang. Vua đi tới một miền phong cảnh đẹp đẽ, đất phẳng mà rộng, có nhiều khe suối. Vua cho là thế đất chưa đủ bèn sai chim đại bàng đắp một trăm quả gò, hẹn trước khi mặt trời mọc phải xong. Chim đại bàng khuân đất đã đắp được 99 gò, chợt có con gà ngủ mơ gáy sáng, chim đại bàng ngỡ sắp rạng đông, vỗ cánh bay đi. Vua Hùng đi tìm đất khác.
Lại đi tới một miền đất mới. Vua thấy có một ngọn núi cao sừng sững như cái trụ chống trời,, vươn lên giữa hàng trăm quả đồi vây quanh. Vua thúc ngựa chạy lên ngọn núi, dừng ngựa đứng trông bốn phương tám hướng, rộng hẹp thấp cao, rừng trải xa xa, khe ngòi quanh lượn.... Đẹp lòng vừa ý, vua dong ngựa từ từ xuống núi. Chợt con ngựa quay đầu, vó ngựa đạp mạnh, núi lở xuống, sạt mất một góc, Vua chê thế đất không vững, bè bỏ đi.
Lại tới một tòa núi đài, đầu cao đuôi thấp, nằm giữa một trăm quả đồi nhỏ, như con giao long bơi lượn trên lớp lớp sóng cồn. Trên núi có đường lên trời, có hang xuống đất. Vua bước vào hang, bỗng gặp một con rắn trắng chắn đường. Vua cho là điềm không hay, lại bỏ đi.
Đi theo sông Thao, tới một vùng thấy trước mặt là sông lớn, sau lưng là núi cao, đầm nước mênh mông vây bọc những hòn đảo nhỏ. Vua đang ngắm gần xa, chợt có một con Rùa Vàng hiện lên trên mặt nước, lưng như tấm phản, gật đầu chào Vua, tự xưng là Chúa đầm này. Vua cưới lưng Rùa và được Rùa Vàng đưa đi thăm 99 ngách, cây cối lòa xòa, nước đen như mực, các loài thủy tộc nô nức kéo đến chào đón nhà Vua. Vua khen cảnh đẹp, nhưng cho rằng thế đất không đủ rọng để họp muôn dân, dựng cung điện, bèn cáo biệt Rùa Vàng ra đi.
Lần tới sông Đà, sóng xô cuồn cuộn, thác réo ào ào, núi Tản vươn mình, cây xanh điệp trùng bát ngát, địa thế tuyệt đẹp. Vua mới truyền tin cho chim phượng hoàng đào 100 cái hồ, chọn đây là đất đóng đô. Đào được 99 hồ thì bỗng có tiếng phượng trống kêu ở nơi xa. Con phượng mái vỗ cánh bay theo tiếng gọi của chim trống, cả đàn cùng bay. Vua thấy không đủ 100 cái hồ, nên cũng bỏ đi.
Vua đi mãi nơi này nơi khác mà chưa chọn được nơi nào có thể định đô. Vua lại đi, lại đi....Đi tới mọt vùng trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về. Đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như rồng chầu hổ phục, như tướng quân bắn nỏ, như ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả đồi xanh tốt, có ngọn núi đột ngột nổi lên, như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề rộng rãi, bồi đắp phù xa, bốn mặt sum suê cây xanh hoa tươi cỏ ngọt, vừa trùng điệp, vừa quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng phán rằng đây thực là đất họp muôn dân, để hiểm để giữ, có thể để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước được muôn đời.
Vua Hùng đóng đô ở đó, gọi tên là thành Phong Châu. Đó là kinh đô Văn Lang xưa.
_____________________________________________________________
Những câu hỏi sau đây!!
Câu 1/ Văn bản trên được viết theo thể loại nào? Cho biết ngôi kể của văn bản?
Câu 2/ Vua Hùng phải trai quả mấy lần lựa chọn để tìm ra vùng đất đóng đô? Theo em việc lặp lại các chi tiết Vua Hùng bỏ đi tìm vùng đất khác nhiều lần như vậy thể hiện dụng ý gì của tác giả dân gian?
Câu 3/ Qua câu chuyện trên, em thấy vua Hùng là người như thế nào?
Câu 4/ Em hãy nêu chủ đề của văn bản này?
Câu 1:truyện thuộc thể loại truyền thuyết.vì có nhân vật lịch sử: Vua Hùng và sự kiện lịch sử:chọn đất đóng đô.văn bản được kể ngôi thứ 3
câu 2:vua hùng phải trả qua 6 lần lụa chọn để tìm đất đóng đô,việc lặp lại chị tiết vua Hùng bỏ đi tìm đất khác cho thấy:
- công cuộc xây dựng đất nc buổi đầu rất khó khăn
- Vua Hùng quyết tâm xây dựng đất nc
còn câu 3 với câu 4 Hok có bíc làm xl nhaaaaa :«
=>M.n ơi cùng mk giải bài này nhé !! Thank evryone ^^
HÙNG VƯƠNG CHỌN ĐẤT ĐÓNG ĐÔ
Vua Hùng đi nhiều nơi để tìm đất đóng đô của nước Văn Lang. Vua đi tới một miền phong cảnh đẹp đẽ, đất phẳng mà rộng, có nhiều khe suối. Vua cho là thế đất chưa đủ bèn sai chim đại bàng đắp một trăm quả gò, hẹn trước khi mặt trời mọc phải xong. Chim đại bàng khuân đất đã đắp được 99 gò, chợt có con gà ngủ mơ gáy sáng, chim đại bàng ngỡ sắp rạng đông, vỗ cánh bay đi. Vua Hùng đi tìm đất khác.
Lại đi tới một miền đất mới. Vua thấy có một ngọn núi cao sừng sững như cái trụ chống trời,, vươn lên giữa hàng trăm quả đồi vây quanh. Vua thúc ngựa chạy lên ngọn núi, dừng ngựa đứng trông bốn phương tám hướng, rộng hẹp thấp cao, rừng trải xa xa, khe ngòi quanh lượn.... Đẹp lòng vừa ý, vua dong ngựa từ từ xuống núi. Chợt con ngựa quay đầu, vó ngựa đạp mạnh, núi lở xuống, sạt mất một góc, Vua chê thế đất không vững, bè bỏ đi.
Lại tới một tòa núi đài, đầu cao đuôi thấp, nằm giữa một trăm quả đồi nhỏ, như con giao long bơi lượn trên lớp lớp sóng cồn. Trên núi có đường lên trời, có hang xuống đất. Vua bước vào hang, bỗng gặp một con rắn trắng chắn đường. Vua cho là điềm không hay, lại bỏ đi.
Đi theo sông Thao, tới một vùng thấy trước mặt là sông lớn, sau lưng là núi cao, đầm nước mênh mông vây bọc những hòn đảo nhỏ. Vua đang ngắm gần xa, chợt có một con Rùa Vàng hiện lên trên mặt nước, lưng như tấm phản, gật đầu chào Vua, tự xưng là Chúa đầm này. Vua cưới lưng Rùa và được Rùa Vàng đưa đi thăm 99 ngách, cây cối lòa xòa, nước đen như mực, các loài thủy tộc nô nức kéo đến chào đón nhà Vua. Vua khen cảnh đẹp, nhưng cho rằng thế đất không đủ rọng để họp muôn dân, dựng cung điện, bèn cáo biệt Rùa Vàng ra đi.
Lần tới sông Đà, sóng xô cuồn cuộn, thác réo ào ào, núi Tản vươn mình, cây xanh điệp trùng bát ngát, địa thế tuyệt đẹp. Vua mới truyền tin cho chim phượng hoàng đào 100 cái hồ, chọn đây là đất đóng đô. Đào được 99 hồ thì bỗng có tiếng phượng trống kêu ở nơi xa. Con phượng mái vỗ cánh bay theo tiếng gọi của chim trống, cả đàn cùng bay. Vua thấy không đủ 100 cái hồ, nên cũng bỏ đi.
Vua đi mãi nơi này nơi khác mà chưa chọn được nơi nào có thể định đô. Vua lại đi, lại đi....Đi tới mọt vùng trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về. Đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như rồng chầu hổ phục, như tướng quân bắn nỏ, như ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả đồi xanh tốt, có ngọn núi đột ngột nổi lên, như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề rộng rãi, bồi đắp phù xa, bốn mặt sum suê cây xanh hoa tươi cỏ ngọt, vừa trùng điệp, vừa quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng phán rằng đây thực là đất họp muôn dân, để hiểm để giữ, có thể để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước được muôn đời.
Vua Hùng đóng đô ở đó, gọi tên là thành Phong Châu. Đó là kinh đô Văn Lang xưa.
_____________________________________________________________
Câu 1:Xác định ngôi kể và trình tự của văn bản?
Câu 2:Trong truyện,Vua Hùng khi chọn đất đóng đô luôn chú ý đến con số 100 . Con số gợi cho em liên tưởng đến hình ảnh nào,trong truyền thuyết nào em biết ?
Câu 3:Hãy chỉ ra từ láy trong câu văn:"Lần tới sông Đà,sóng xô cuồn cuộn,thác réo ào ào,núi tàn Vươn mình,cây xanh điệp trùng bát ngát,địa thể tuyệt đẹp"?Giải nghĩa một từ láy trong số các từ mà em vừa tìm được?
Câu 4:Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu sau:"Đồi núi gần xa,khe ngòi quanh quất,thế đất bày ra như rồng chầu hổ phục,như tướng quân bắt nỏ,như ngựa chạy phượng bay."
HÙNG VƯƠNG CHỌN ĐẤT ĐÓNG ĐÔ
Vua Hùng đi nhiều nơi để tìm đất đóng đô của nước Văn Lang. Vua đi tới một miền phong cảnh đẹp đẽ, đất phẳng mà rộng, có nhiều khe suối. Vua cho là thế đất chưa đủ bèn sai chim đại bàng đắp một trăm quả gò, hẹn trước khi mặt trời mọc phải xong. Chim đại bàng khuân đất đã đắp được 99 gò, chợt có con gà ngủ mơ gáy sáng, chim đại bàng ngỡ sắp rạng đông, vỗ cánh bay đi. Vua Hùng đi tìm đất khác.
Lại đi tới một miền đất mới. Vua thấy có một ngọn núi cao sừng sững như cái trụ chống trời,, vươn lên giữa hàng trăm quả đồi vây quanh. Vua thúc ngựa chạy lên ngọn núi, dừng ngựa đứng trông bốn phương tám hướng, rộng hẹp thấp cao, rừng trải xa xa, khe ngòi quanh lượn.... Đẹp lòng vừa ý, vua dong ngựa từ từ xuống núi. Chợt con ngựa quay đầu, vó ngựa đạp mạnh, núi lở xuống, sạt mất một góc, Vua chê thế đất không vững, bè bỏ đi.
Lại tới một tòa núi đài, đầu cao đuôi thấp, nằm giữa một trăm quả đồi nhỏ, như con giao long bơi lượn trên lớp lớp sóng cồn. Trên núi có đường lên trời, có hang xuống đất. Vua bước vào hang, bỗng gặp một con rắn trắng chắn đường. Vua cho là điềm không hay, lại bỏ đi.
Đi theo sông Thao, tới một vùng thấy trước mặt là sông lớn, sau lưng là núi cao, đầm nước mênh mông vây bọc những hòn đảo nhỏ. Vua đang ngắm gần xa, chợt có một con Rùa Vàng hiện lên trên mặt nước, lưng như tấm phản, gật đầu chào Vua, tự xưng là Chúa đầm này. Vua cưới lưng Rùa và được Rùa Vàng đưa đi thăm 99 ngách, cây cối lòa xòa, nước đen như mực, các loài thủy tộc nô nức kéo đến chào đón nhà Vua. Vua khen cảnh đẹp, nhưng cho rằng thế đất không đủ rọng để họp muôn dân, dựng cung điện, bèn cáo biệt Rùa Vàng ra đi.
Lần tới sông Đà, sóng xô cuồn cuộn, thác réo ào ào, núi Tản vươn mình, cây xanh điệp trùng bát ngát, địa thế tuyệt đẹp. Vua mới truyền tin cho chim phượng hoàng đào 100 cái hồ, chọn đây là đất đóng đô. Đào được 99 hồ thì bỗng có tiếng phượng trống kêu ở nơi xa. Con phượng mái vỗ cánh bay theo tiếng gọi của chim trống, cả đàn cùng bay. Vua thấy không đủ 100 cái hồ, nên cũng bỏ đi.
Vua đi mãi nơi này nơi khác mà chưa chọn được nơi nào có thể định đô. Vua lại đi, lại đi....Đi tới mọt vùng trước mặt ba sông tụ hội, hai bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về. Đồi núi gần xa, khe ngòi quanh quất, thế đất bày ra như rồng chầu hổ phục, như tướng quân bắn nỏ, như ngựa chạy phượng bay. Giữa những quả đồi xanh tốt, có ngọn núi đột ngột nổi lên, như voi mẹ nằm giữa đàn con. Vua lên núi nhìn ra bốn phía thấy ba bề rộng rãi, bồi đắp phù xa, bốn mặt sum suê cây xanh hoa tươi cỏ ngọt, vừa trùng điệp, vừa quanh co, có rộng mà phẳng, có hẹp mà sâu. Vua cả mừng phán rằng đây thực là đất họp muôn dân, để hiểm để giữ, có thể để mở, thế đất vững bền có thể dựng nước được muôn đời.
Vua Hùng đóng đô ở đó, gọi tên là thành Phong Châu. Đó là kinh đô Văn Lang xưa.
Câu 5:Truyền thuyết trên có liên quan đến nhân vật và sự kiện lịch sử nào?Qua việc Vua Hùng bỏ đi tìm vùng đất khác nhiều lần như vậy trong câu chuyện trên,em thấy Vua Hùng là người như thế nào?
Viết một đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận của em về nhân vật Lang Liêu (Hoặc: Vì sao Lang Liêu được thần giúp đỡ/ Vì sao vua Hùng truyền ngôi cho Lang Liêu?)
viết một đoạn văn ngắn 10 - 12 câu trình bày những cảm nhận của em về ng anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn mà em đã được học trong văn bản 'Hịch tướng sĩ'. GIUP VOI
Lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của con người. Nhờ thứ tình cảm ấy mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đối mặt với những kẻ thù mạnh nhất thế giới nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng. Tấm lòng yêu nước của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn cũng được thể hiện thật cảm động qua bài Hịch tướng sĩ. Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Bài hịch là lời kêu gọi ý chí chiến đấu và sự thức tỉnh của tướng lĩnh và binh sĩ trước những hành động ngang ngược, bạo tàn của kẻ thù. Qua đó cũng thể hiện tình yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc cùng ý chí chiến đấu quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của Trần Quốc Tuấn.
Tham khảo nha em:
Trần Quốc Tuấn là vị tướng tài ba của dân tộc. Ông có một trái tim yêu nước thiết tha, điều đó được thể hiện rõ nhất qua từng lời, từng chữ trong bài Hịch tướng sĩ đó ông viết. Thấy đất nước lầm than, nhân dân khốn cùng, ông không khỏi xót xa "nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa". Càng yêu nước ông cành căm phẫn bọn giặc giày xéo Tổ quốc mình, sẵn sàng hy sinh cả bản thân để dành lại tự do cho dân tộc. Thấy quân sĩ, tướng lĩnh lơ là việc luyện tập, ông thẳng thắng phê phán, đồng thời cũng khích lệ tinh thần đấu tranh của binh sĩ mình đứng lên cứu nước. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thật đáng trân trọng và tự hào, ông là gương sáng cho bao thế hệ sau noi theo. Biết phấn đấu và có trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc mình.
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 5 đến 7) câu trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp dân tộc vn qua 4 câu thơ sau: Đất nghèo nuôi những anh hùng Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên Đạp quân thù xuống đất đen súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Tham khảo
Có thể nói, đây là những nét phác họa tài hoa của nhà thơ:“Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên/ Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đất nước trong Việt Nam quê hương ta của Nguyễn Đình Thi là thế đó! Một đất nước yên bình, đẹp như bức tranh, con người thì hiền hòa, nhân hậu nhưng sẽ “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” khi đất nước lâm nguy. “Đất nước đứng lèn” bằng bàn tay của những người anh hùng “áo vải”, chân đất, giản dị nhưng lại mang một sức mạnh phi thường. Những con người mà trong cuộc sông ngày thường lại quá đỗi hiền lành, chất phác song khi vào trận đánh họ lại hùng dũng vô cùng. Những con người ấy được Nguyễn Đình Thi phát hiện ra từ những mãnh đất nghèo.