Bài thơ giọt sương kiều diễm được viết theo thể thợ nào ? Em đã học bài thơ nào , của ai trong chương trình Ngữ văn 6 , học kì II cùng viết theo thể thơ này ?
Dựa vào bài thơ dưới đây, em hãy viết đoạn văn kể về giọt sương kiều diễm mà kiêu kì.
Giọt sương kiều diễm
Giọt sương kiều diễm
Có giọt sương kiều diễm
Tính đỏng đảnh, kiêu kì
Chẳng coi ai ra gì
Luôn nghĩ mình đẹp nhất.
Sương bảo chị cỏ Mật :
-Đấy, chị cứ nghĩ xem
Không có tôi đậu lên
Chị làm sao lấp lánh
Sương còn bảo chị Nấm :
- Nếu tôi không đánh đu
Vành nón chị rất thô
Chị làm sao duyên dáng?
Khoe mãi không biết chán
Bỗng nắng ập đến rồi
Đang khoác lác liên hồi
Sương thấy mình tan chảy…
Cỏ cây càng lộng lẫy
Hạt sương càng nóng ran
Có phải thấy bẽ bàng
Mà hạt sương trốn biệt ?
bạn ơi cho mình hỏi hình như lớp 4 đâu có đề này đâu nhỉ??
Dựa vào bài thơ dưới đây, em hãy viết đoạn văn kể về giọt sương kiều diễm mà kiêu kì.
Giọt sương kiều diễm
Giọt sương kiều diễm
Có giọt sương kiều diễm
Tính đỏng đảnh, kiêu kì
Chẳng coi ai ra gì
Luôn nghĩ mình đẹp nhất.
Sương bảo chị cỏ Mật :
-Đấy, chị cứ nghĩ xem
Không có tôi đậu lên
Chị làm sao lấp lánh
Sương còn bảo chị Nấm :
- Nếu tôi không đánh đu
Vành nón chị rất thô
Chị làm sao duyên dáng?
Khoe mãi không biết chán
Bỗng nắng ập đến rồi
Đang khoác lác liên hồi
Sương thấy mình tan chảy…
Cỏ cây càng lộng lẫy
Hạt sương càng nóng ran
Có phải thấy bẽ bàng
Mà hạt sương trốn biệt ?
Dựa vào bài thơ dưới đây, em hãy viết đoạn văn kể về giọt sương kiều diễm mà kiêu kì.
Giọt sương kiều diễm
Giọt sương kiều diễm
Có giọt sương kiều diễm
Tính đỏng đảnh, kiêu kì
Chẳng coi ai ra gì
Luôn nghĩ mình đẹp nhất.
Sương bảo chị cỏ Mật :
-Đấy, chị cứ nghĩ xem
Không có tôi đậu lên
Chị làm sao lấp lánh
Sương còn bảo chị Nấm :
- Nếu tôi không đánh đu
Vành nón chị rất thô
Chị làm sao duyên dáng?
Khoe mãi không biết chán
Bỗng nắng ập đến rồi
Đang khoác lác liên hồi
Sương thấy mình tan chảy…
Cỏ cây càng lộng lẫy
Hạt sương càng nóng ran
Có phải thấy bẽ bàng
Mà hạt sương trốn biệt ?
Dựa vào bài thơ dưới đây, em hãy viết đoạn văn kể về giọt sương kiều diễm mà kiêu kì.
Giọt sương kiều diễm
Giọt sương kiều diễm
Có giọt sương kiều diễm
Tính đỏng đảnh, kiêu kì
Chẳng coi ai ra gì
Luôn nghĩ mình đẹp nhất.
Sương bảo chị cỏ Mật :
-Đấy, chị cứ nghĩ xem
Không có tôi đậu lên
Chị làm sao lấp lánh
Sương còn bảo chị Nấm :
- Nếu tôi không đánh đu
Vành nón chị rất thô
Chị làm sao duyên dáng?
Khoe mãi không biết chán
Bỗng nắng ập đến rồi
Đang khoác lác liên hồi
Sương thấy mình tan chảy…
Cỏ cây càng lộng lẫy
Hạt sương càng nóng ran
Có phải thấy bẽ bàng
Mà hạt sương trốn biệt ?
Bạn tham khảo nha
ngày xưa có 1 giọt sương xinh đẹp,kiều diễm nhưng lại rất xấu tính,đỏng đảnh và kiêu kì cứ cho mình là đẹp nhất,không coi trời đất là gì.có 1 lần khi vô tình đậu trên chị vỏ mật ,giọt sương nói:"này,chị thấy tôi có đẹp không?cứ nghĩ xem tôi có đẹp không?nhờ tôi chị mới xinh đẹp lấp lánh như vậy đấy.
chị vỏ mật liền nói :"được rồi cô lúc nào cũng cho là mình đẹp hết phần thiên hạ mà!Dừng lại mà sống đứng là chính mình đi.Sương nói:"ưi thế à,nếu tôi không đánh đu vành nón chị rất thô,khô,làm gì có chuyện duyên dáng,sang chảnh,xinh đẹp như tôi đây.chị vỏ mật nói:"vâng cô thì đẹp rồi ,lúc nào cũng cho là mình đẹp nhất,giọt sương như cậu vô tình đến với tôi thôi, chứ làm gì có chuyện tôi lại thích chị khoe khoang vậy.Giotj sương cứ khoe khoang sắc đẹp cả buổi, rồi đến lúc nắng lên.giọt sương đang mát lạnh bỗng bị nóng rồi tan chảy rồi bốc hơi lên.Vậy là cuộc đời giọt sương kiêu kì kết thúc.
Mình viết theo văn kể chuyện .Tick cho mik nha
1. Đọc văn bản Muốn làm thằng cuội
2. Tìm hiểu văn bản
a. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? So với những bào cùng thể thơ đã học, bài thơ này có điểm già khác (về ngôn ngữ,cách thể hiện)
b. Nhận xét về giọng điệu của hai câu thơ mở đầu. Theo em vì sao Tản Đà có tâm trạng chán trần như thế?
c. Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu "ngông” nghĩa là gì ? (bộc lộ một thái độ như thế nào đối với cuộc sống)? Hãy phân tích cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội (chú ý các câu 3 - 4, 5 - 6).
d. Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì?
e. Theo em, những yếu tố nghệ thuật nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ?
mọi người ơi giúp mik với
mik đang cần gấp
Câu 1:
Kể tên các bài thơ trung đại (kèm theo tên tác giả) mà em đã được học trong chương trình Ngữ văn lớp 7 học kì I. Trong những bài thơ ấy em thích nhất bài thơ nào? Vì sao?
Câu 2: Đọc bài ca dao sau và trả lời câu hỏi cho ở bên dưới.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Tình cảm bài ca dao muốn diễn tả là tình cảm gì? Tìm những bài ca dao, bài thơ cũng nói đến công cha, nghĩa mẹ mà em biết.
Câu 1: Con hổ có nghĩa( Vũ Trinh)
-Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng(Hồ Nguyên Trừng)
-Chuyện người con gái Nam Xương(Nguyễn Dữ)
-Chuyện cũ trong phủ chúa(Phạm Đình Hổ)
Tôi thích nhất là bài " Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng, vì tôi rất ngưỡng mộ tấm lòng cao thượng, không sợ uy quyền của người bề trên.
Câu 2:
Công cha nghĩa mẹ được nói đến nhiều trong ca dao. Bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn” hầu như em bé nào cũng đã “uống” qua lời ru ngọt ngào của mẹ, của bà ngay từ thuở còn nằm trong nôi. Còn có bài ca dao bốn câu sau đây hầu như ai cũng nhớ cũng thuộc:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi
Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn, ở đây công cha lại được ví với “núi ngất trời", núi hùng vĩ, núi cao chót vót ,cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa mẹ”’ nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển Đông. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa mẹ cha với tình yêu sâu nặng. Tiếng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ Thấm thía và rung động biết bao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông”
Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi !” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làm con phải biết "ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu trên là một ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông”. Câu cuối bài ca dao, nhà thơ dân gian sử dụng cụm từ Hán Việt “cù lao chín chữ” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành nuôi dưỡng, cho bú mớm nâng niu, chăm sóc dạy bảo… con cái lớn khôn nên người, trải qua nhiều bề vất vả, khó nhọc. Có cha mẹ mới có con cái. Cha lo làm ăn, vất vả khó nhọc để nuôi con. Từ bát cơm, tấm áo đến ngọn đèn, quyển sách của con là do “công cha” và “nghĩa mẹ”. Mẹ mang nặng đẻ đau, như tục ngữ đã ghi lại: “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”. Con thơ lớn lên bằng dòng sữa tiếng ru, tiếng hát, bằng sự vỗ về, âu yếm chở che của mẹ hiền. Mẹ theo dõi, mẹ vui sướng từng ngày, từng ngày: “Ba tháng con biết lẫy, bảy thảng con biết bò, chín tháng con lò dò biết đi”… Mẹ lo lắng, tóc mẹ bạc dần… khi con thơ ốm đau bệnh tật. Bát cháo, chén thuốc cho con chứa đựng biết bao tình thương của mẹ hiền. Và cái ngày con cắp sách đến trường vào học lớp Một, mẹ cha như trẻ lại, dào dạt sống trong niềm vui hạnh phúc và hi vọng. Đó là “cù lao chín chữ", đó là công ơn to lớn trời bể của mẹ cha, mà con cái phải biết “ghi lòng”. Có hiếu thảo thì con cái mới biết “ghi lòng” công cha nghĩa mẹ. Hai tiếng “con ơi " thật thấm thía, vần thơ như thấm sâu, lắng sâu vào tâm hồn ta.
Cái hay của bài ca dao là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con.
Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì?
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công?
Đêm đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa
Viết về cảnh đẹp đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc, tác giả của bài thơ trên cũng có một bài thơ đặc sắc khác được đưa vào học trong chương trình Ngữ văn 7 kì 1, hãy cho biết đó là bài thơ nào? Giới thiệu về đặc điểm thể thơ của bài thơ đó?
Chính Hữu viết bài thơ Đồng chí để “tặng người bạn nông dân” của mình. Trong chương trình Ngữ văn THCS, em còn được học một bài thơ khác cũng viết về tình bạn. Đó là bài thơ nào? Của ai?
Câu 1: Bài thơ được viết về đề tài nào?Nêu tên một bài thơ của các tác giả khác mà em đã học trong chương trình Ngữ văn THCS cũng viết về đề tài này, ghi rõ tên tác giả của từng bài thơ đó.
Câu 2: Tìm các câu thơ có biện pháp tu từ so sánh và phân tích tác dụng của một phép so sánh trong khổ thơ thứ 2 của bài thơ "Quê hương"
Câu 3: Tìm các câu thơ có biện pháp tu từ nhân hoá trong khổ thơ thứ 3 và nêu tác dụng
Cứuuu vsss sắp hết h rrrr, plsss
1. Bài thơ được viết theo đề tài quê hương đất nước. Bài thơ đã học cũng viết về đề tài này: Lòng yêu nước, Quê hương (Đỗ Trung Quân)...
2. Hình anh so sánh:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Em tham khảo tác dụng:
+ Biện pháp so sánh con thuyền ra khơi “hăng như con tuấn mã” gợi lên hình ảnh con thuyền chạy nhanh như con ngựa đẹp và khỏe ( tuấn mã) đang phi. Sự so sánh này làm nổi bật vẻ đẹp khỏe khoắn, sự mạnh mẽ của con thuyền khi ra khơi.
+ Biện pháp so sánh ở câu“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng” tức là so sánh một vật cụ thể hữu hình, quen thuộc (cánh buồm) với một hình ảnh trừu tượng vô hình có ý nghĩa thiêng liêng (mảnh hồn làng). Cách so sánh này làm cho hình ảnh cánh buồm không chỉ trở nên cụ thể sống động mà còn có vẻ đẹp lớn lao, trang trọng, thiêng liêng. Cánh buồm no gió ra khơi trở thành biểu tượng cho đời sống tâm linh, đầy ý nghĩa của người dân làng chài.
3. Khổ 3 em xem lại nha, ko có BPTT nhân hóa á.