Vì sao Trần Thủ Độ lại thưởng vàng, lụa cho người quân hiệu?
A. vì người quân hiệu biết giữ phép nước
B. vì người quân hiệu dám chống lại quyền lực
C. vì người quân hiệu dám phạt vợ ông
D. vì người quân hiệu thông minh
Đọc đoạn trích dưới đây của truyện Thái sư Trần Thủ Độ
Linh Từ Quốc Mẫu ngồi kiệu đi qua chô thềm cấm, bị một người quân hiệu ngăn lại. Về nhà, bà khóc:
- Tôi là vợ thái sư mà bị kẻ dưới khinh nhờn.
Ông cho bắt người quân hiệu đến. Người này nghĩ là phải chết. Nhưng khi nghe anh ta kể rõ ngọn ngành, ông bảo:
- Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa!
Nói rồi, lấy vàng, lấy lụa thưởng cho.
- Đọc giọng to, rõ ràng.
- Nhấn mạnh các tình tiết của Thái sư.
Trước cùng một sự việc (người quân hiệu ngăn lại không cho Linh Từ Quốc Mẫu đi qua thềm cấm) mà một người thì cho là khinh nhờn thượng cấp, đòi phải trừng phạt, một người cho là biết giữ phép, lấy vàng lụa khen thưởng.
Sự đối lập, nghịch trái như vậy đã có tác dụng gì rõ nhất trong việc thể hiện nhân vật và chủ đề tác phẩm?
A. Nhấn mạnh tính phức tạp của mọi sự việc trong đời sống.
B. Làm rõ thêm cái khó của những phải người cầm cân nảy mực.
C. Làm nổi bật tính cách tốt đẹp của Thủ Độ.
D. Cho thấy với Thủ Độ, việc thưởng phạt là rất công minh.
Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ xử lí sao?
#TK
Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ không những không trách móc mà còn thưởng cho vàng lụa.
Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ không những không trách móc mà còn thưởng cho vàng lụa.
Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ xử lí ra sao?
Người quân hiệu đã vì phép nước mà dám ngăn lại không cho kiệu của Linh Từ Quốc Mẫu – vợ quan Thái sư "đi qua chỗ thềm cấm". Khi bị bắt, anh ta nghĩ "phải chết". Sau khi nghe người quân hiệu "kể rõ ngọn ngành", Trần Thủ Độ không những không bắt tội mà còn lấy vàng lụa thưởng cho anh ta. Câu nói: "Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa!" đã cho thấy vị Thái sư rất chí công, coi trọng phép nước, đặt phép nước lên trên tình riêng.
Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?
Câu nói với người quân hiệu cho thấy nguyên tắc đánh giá, nhìn nhận con người và sự việc của Trần Thủ Độ là gì?
A. Bất kì ai và với bất kì lí do gì cũng không được quyền oán trách, dập vùi những người đang thực thi nhiệm vụ để giữ nghiêm phép nước.
B. Bất cứ ai cũng phải giữ phép nước, nhưng người ở chức cao thì càng phải biết giữ phép nước hơn.
C. Bất cứ ai biết giữ phép nước đều đáng khen.
D. Kẻ đáng trách là người ỷ quyền thế, không tôn trọng phép nước chứ không phải là người quân hiệu làm đúng bổn phận của mình.
Việc thưởng vàng lụa cho người đã buộc vợ mình phải xuống kiệu chứng tỏ Trần Thủ Độ là người như thế nào?
a. Yêu chiều vợ con, làm bất cứ điều gì vì họ.
b. Không vì tình riêng mà vi phạm kỉ cương phép nước.
c. Không yêu quý vợ con.
Việc thưởng vàng lụa cho người đã buộc vợ mình phải xuống kiệu chứng tỏ Trần Thủ Độ là người như thế nào?
a. Yêu chiều vợ con, làm bất cứ điều gì vì họ.
b. Không vì tình riêng mà vi phạm kỉ cương phép nước.
c. Không yêu quý vợ con.
Vì sao Nguyễn Huệ lại sử dụng khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” khi tiến quân ra Bắc?
A. Uy tín của nhà Lê đối với dân Đàng Ngoài lớn
B. Do nhà Lê ủng hộ Tây Sơn lật đổ chúa Trịnh
C. Do nhà Lê ủng hộ Tây Sơn lật đổ chúa Nguyễn
D. Do nhà Lê ủng hộ Tây Sơn kháng chiến chống Xiêm
Lời giải:
Sở dĩ Nguyễn Huệ lại sử dụng khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” khi tiến quân ra Bắc vì nhà Lê là vương triều phong kiến thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam, uy tín của nhà Lê với dân Đàng Ngoài rất lớn, trong khi vua Lê lại bị chúa Trịnh tiếm quyền => “Phù Lê diệt Trịnh” thực chất là khẩu hiệu để tập hợp lực lượng lật đổ chúa Trịnh dễ dàng
Đáp án cần chọn là: A
Trước việc làm của người quân hiệu, Trần Thủ Độ xử lí như thế nào?
A. La mắng, khiển trách người quân hiệu.
B. Không trách móc mà còn thưởng cho vàng bạc.
C. La mắng và đuổi việc người quân hiệu.
vì sao lý thường kiệt lại giảm hào vs quân tống
mọi người bảo vs ạ
vì chúng ta không muốn nhà Tống mang quân sang xâm lược nước ta lần nào nữa và muốn bảo đảm hòa bình lâu dài và hữu nghị giữa hai nước nên Lý Thường Kiệt đã chủ động giảng hòa.