Những câu hỏi liên quan
ng.nkat ank
Xem chi tiết
thảo nguyễn
22 tháng 10 2021 lúc 20:57

tham khảo

According to historical records, Ly Cong Uan was born on February 12, Giap Tuat year (March 8, 974). At the age of 3, Ly Cong Uan's mother took him to Ly Khanh Van's house, and Khanh Van adopted him. From a young age, he was intelligent and unusually handsome. ... Later, Ly Cong Uan relied on the Buddha's door, Khanh Van raised him, and Van Hanh taught him.

Bình luận (0)
кαвαиє ѕнιяσ
22 tháng 10 2021 lúc 23:18

Tham khảo:

Theo sử sách, Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (8 tháng 3 năm 974). Năm 3 tuổi, mẹ Lý Công Uẩn đưa về nhà Lý Khánh Vân, Khánh Vân nhận làm con nuôi. Từ nhỏ anh đã thông minh, khôi ngô khác thường. … Sau này, Lý Công Uẩn nương nhờ cửa Phật, Khánh Vân nuôi nấng, Vạn Hạnh dạy dỗ.

Bình luận (15)
Thanh Le
30 tháng 10 2021 lúc 22:02

Hai Ba Trung (September 13, 14 - March 5, 43) is the common name of two sisters Trung Trac (徵側) and Trung Nhi (徵貳), two women who are considered as national heroes of Vietnam. Vietnamese.[5] In history books, the two women are known as the leaders who rebelled against the colonial government of the Eastern Han, founded a nation with the capital at Me Linh and Trung Trac proclaimed themselves Queen. The period of the two women alternates between the period of the first Northern domination and the second Northern domination in the history of Vietnam. The Dai Viet historical records of the entire book considered Trung Trac a king in history, with the name Trung Nu Vuong (徵女王). After the Hai Ba Trung uprising was defeated by the Eastern Han army under the command of Ma Vien, according to Chinese history, the two women were beheaded and brought back to Luoyang. According to Vietnamese history, because Hai Ba Trung did not want to submit, she threw herself into the Hat Giang river to commit suicide. In addition to the official history, the life and career of Hai Ba Trung is reflected in many jade genealogies and divine genealogies. Because of the lack of consistency between the sources, many historians have used the source of divine genealogy and jade genealogy to supplement the Hai Ba Trung uprising.

Bình luận (0)
04. Trần Thị Mai Anh lớp...
Xem chi tiết
Thư Phan
24 tháng 11 2021 lúc 21:52

Tham khảo!

Trong số những tác phẩm văn họ ,bài thơ "tiếng gà trưa" đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Nổi bật ở đây là vẻ đẹp bình dị,gần gũi của tình bà cháu. Bà chăm chút ,nâng niu từng quả trứng cho con gà mái ấp để cuối năm bán gà ,dành dụm tiền để mua cho cháu bộ quần áo mới cho cháu mặc Tết. Sự tần tảo,yêu thương của bà đã in đậm vào trong tâm trí của người cháu. Chỉ một tiếng gà nhảy ổ thôi nhưng đã gợi về bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu đc sống trong tình yêu thương bao la của bà. Những kỉ niệm đó như tiếp thêm động lực chiến đấu cho anh chiến sĩ chiến đấu vì Tổ quốc,vì bà,vì xóm làng. Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi và lời thơ bình dị, bài thơ đẫ cho em thấy được tình cảm bà cháu thiêng liêng,đẹp đẽ.

Bình luận (0)
Đào Tùng Dương
24 tháng 11 2021 lúc 21:53

Tham khảo : 

Người xưa đã có câu ” Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”. Có gì tuyệt vời hơn khi cháu được bộ quần áo mới để chơi Tết? niềm vui còn trọn vẹn hơn khi tấm áo ấy là tất cả tình thương, đó là thành quả sau bao ngày vất vả, là sự hi sinh thầm lặng của bà.Chỉ với âm thanh tiếng gà trưa nhưng người chiến sĩ đã nhớ về bao kỉ niệm, về lời nói, cử chỉ của bà. Điều đó chứng tỏ tình cảm dành cho bà luôn thường trực trong tâm hồn đứa cháu. Cháu vô cùng yêu quý, kính trọng và biết ơn bà. Qua những khổ thơ chứa đầy tình yêu thương, ta thầm cảm phục và ước ao có một tình bà cháu sâu nặng, thắm thiết như thế. Đối với người chiến sĩ, tình cảm bà cháu chính là quãng thời gian đẹp nhất của tuổi ấu thơ.

Bình luận (0)
Đỗ Đức Hà
24 tháng 11 2021 lúc 21:53

Người chiến sĩ trên chặng đường hành quân xa khi dừng chân bên thôn xóm. Bỗng nghe tiếng gà nhảy ổ quen thuộc và nhớ về kí ức và tuổi thơ đẹp đẽ bên người bà thân yêu. Đó là tiếng bà mắng khi cháu xem trộm gà đẻ, hình ảnh bà lo lắng khi trời rét lo cho đàn gà. Những hình ảnh trên đã sống lại trong người chiến sĩ về hình ảnh người bà thân yêu và hết mực yêu thương người cháu của mình. Người bà luôn chăm lo đàn gà, vất vả tần tảo sớm hôm để nuôi cháu trưởng thành như ngày hôm nay. Trong lòng người cháu bỗng tuôn trào cảm xúc và sự biết ơn những hy sinh cao cả từ người bà thân yêu.Tiếng gà gáy và hình ảnh người bà đã thôi thúc và trở thành động lực để người cháu chiến đấu vì lòng yêu đất nước, vì xóm làng thân thuộc, vì người bà và vì những kỉ niệm tuổi thơ đã từng gắn bó. Tiếng gà trưa lối thơ nhẹ nhàng kết hợp tự sự, kể lại những kỉ niệm từ tiếng gà gây lên một cảm xúc lắng đọng, xúc động trong tâm hồn người đọc. Bài thơ cũng chính là tình yêu của người cháu đối với người bà, đồng thời là tình yêu làng xóm yêu quê hương đất nước của người cháu.

Bình luận (0)
T làm đ có tên
Xem chi tiết
Hoàng hôn  ( Cool Team )
10 tháng 11 2019 lúc 21:05

“Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa". Câu thơ đã nhắc tới toàn bộ hoàn cảnh, không gian và thời gian tại Đèo Ngang, nhân vật trữ tình khi đặt chân đến đây đã tức cảnh sinh tình trước khung cảnh Đèo Ngang khi buổi chiều tà. Khung cảnh ấy gợi lên một nỗi buồn man ma, mênh mang và xa xăm, tiếc nuối về một ngày sắp hết. Việc nhân hóa các loài cây cỏ với động từ “chen” đã tạo nên nét vẽ sống động cho bức tranh thiên nhiên đầy sức sống, hơn thế còn là sức sống mãnh liệt. Tiếp theo ở hay câu thơ thực, tác giả đang ở tư thế đứng trên đèo cao mà phóng tầm mắt nhìn về xung quanh, ra xa để tìm kiếm bóng dáng con người: “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm vẻ hiu hắt mênh mang của cảnh vật. Biện pháp đảo ngữ kết hợp với những từ láy đã góp phần diễn tả không khí vắng vẻ của cuộc sống nơi đây, vẻ hiu quạnh bao trùm lên toàn bộ cảnh vật. “tiều vài chú” đang “lom khom” dưới núi, đó là hình ảnh của con người lao động vất vả, thưa thớt. “Lác đác” bên sông “chợ mấy nhà” ấy là chỉ sự nghèo đói và kém phát triển của vùng đất này. Hai câu luận đã khắc họa rõ nét nỗi buồn của tác giả qua những âm thanh thê lương, não lòng: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm buồn mà còn mang nặng những nỗi niềm nuối tiếc của một tấm lòng yêu nước thương dân như Bà Huyện Thanh Quan.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
T làm đ có tên
10 tháng 11 2019 lúc 21:09

Mình bảo là không quá 10 dòng rồi mà -_-

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Toán học is my best:))
10 tháng 11 2019 lúc 21:11

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại xưa.Bài thơ "Qua đèo Ngang"của bà đã để lại trong em ấn tượng sâu sắc.Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật rất chặt chẽ về vần,luật nhưng bài thơ gợi tả rất tinh tế cảnh đèo Ngang và tâm trạng buồn man mác của tác giả ẩn trong từng câu từng chữ bài trong bài thơ.Cảnh đèo Ngang hiện lên thật hoang sơ,chỉ có cỏ cây hoa lá chen chúc nhau u tùm,rậm rạp.Sự sống của con người có sự xuất hiện nhưng quá thưa thớt,ít ỏi"tiều vài chú","chợ mấy nhà"làm cho cảnh vật hoang sơ,vắng lặng hơn.Đứng trước cảnh như thế trong không gian chiều tà và âm thanh tiếng chim quốc kêu,chim đa đa kêu khắc khoải càng làm cho tâm trạng buồn,cô đơn vì phải xa quê hương gia đình của bà càng sâu đậm.Qua bài thơ đã cho em cảm nhận nỗi buồn thầm lặng không có người chia sẻ của tác giả

thông cảm văn mik viết ko dc hay như bạn hoàng hôn

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
T làm đ có tên
Xem chi tiết
Toán học is my best:))
10 tháng 11 2019 lúc 21:19

Bà Huyện Thanh Quan là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại xưa.Bài thơ "Qua đèo Ngang"của bà đã để lại trong em ấn tượng sâu sắc.Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật rất chặt chẽ về vần,luật nhưng bài thơ gợi tả rất tinh tế cảnh đèo Ngang và tâm trạng buồn man mác của tác giả ẩn trong từng câu từng chữ bài trong bài thơ.Cảnh đèo Ngang hiện lên thật hoang sơ,chỉ có cỏ cây hoa lá chen chúc nhau u tùm,rậm rạp.Sự sống của con người có sự xuất hiện nhưng quá thưa thớt,ít ỏi"tiều vài chú","chợ mấy nhà"làm cho cảnh vật hoang sơ,vắng lặng hơn.Đứng trước cảnh như thế trong không gian chiều tà và âm thanh tiếng chim quốc kêu,chim đa đa kêu khắc khoải càng làm cho tâm trạng buồn,cô đơn vì phải xa quê hương gia đình của bà càng sâu đậm.Qua bài thơ đã cho em cảm nhận nỗi buồn thầm lặng không có người chia sẻ của tác giả

2 lần rồi viết mỏi tay quá :((

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
T làm đ có tên
10 tháng 11 2019 lúc 21:20

bài này có trên mạng mà , mỏi tay cái gì

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
T làm đ có tên
10 tháng 11 2019 lúc 21:22

gợi ý: Vì đây là biểu cảm về cảnh vật nên bỏ qua cảm xúc của tác giả, chỉ biểu cảm về cảnh vật thôi(Đẹp Vl)

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
hoàng kim
Xem chi tiết
T làm đ có tên
Xem chi tiết
T làm đ có tên
10 tháng 11 2019 lúc 21:36

bọn m search google xem Đèo Ngang có đẹp không

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
T làm đ có tên
10 tháng 11 2019 lúc 21:37

NG buồn cảnh có vui đâu bao giờ ??

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Phan Tiến Nghĩa
11 tháng 11 2019 lúc 13:56

"Qua đèo Ngang" là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, "Qua đèo Ngang" không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân "bước đến" rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn "bóng xế tà". Hình ảnh "bóng xế tà" lấy ý từ thành ngữ "chiều ta bóng xế" gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ "chen" cùng với phép liệt kê hàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều tà lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có "tiều vài chú" kết hợp với từ láy "lom khom" dưới núi. Cảnh vật thì "lác đác" "chợ mấy nhà". Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.

Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu "cuốc cuốc". Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng "gia gia" là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi "thương nhà". Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ:

Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên "một mảnh tình riêng ta với ta". Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.

"Qua đèo Ngang" là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Xem chi tiết
Uyên trần
16 tháng 3 2021 lúc 20:48

Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Li bị bắt, Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt. Nguyễn Trãi định đi theo cha để tỏ lòng trung nước, hiếu phụ nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con trở về tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Sau đó, Nguyễn Trãi tìm đường giúp Lê Lợi khởi nghĩa. Trong quá trình kháng chiến chống quân Minh, Nguyễn Trãi trở thành người quân mưu cho Lê Lợi, thay mặt Lê Lợi giao dịch, trở thành vị quân sư xuất sắc. Năm 1427, cuộc chiến đấu chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết “Bình ngô đại cáo”. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi giữ trọng trách quan trọng của đất nước. Những năm sau đó, ông giúp Lê Lợi trị vì đất nước. Nhưng dần dần, triều đình bắt đầu phân chia bè phái, dèm pha, nghi kị lẫn nhau, đặc biệt là một số công thần đã bị hãm hại. Năm 1442. Nguyễn Trãi mắc phải án oan Lệ Chi viên bị khép vào tội mưu sát vua. Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với những biến động của lịch sử dân tộc. Ông là bậc đại anh hùng dân tộc, là nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi vừa là nhà chính trị, quân sự, vừa là nhà ngoại giao, vừa là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc. Năm 1962, nước ta đã tổ chức 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm 1980, Việt Nam cùng hiệp hội UNESCO kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông. Nguyễn Trãi là người Việt Nam đầu tiên được ghi vào danh sách những danh nhân thế giới

Bình luận (0)
Xem chi tiết
Tết
31 tháng 1 2020 lúc 20:50

Thuở xưa, nước ta bị quân Hán đô hộ. Chúng  rất tàn ác, hà hiếp nhân dân ta và ra sức vơ vét của cải. 

Bấy giờ ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi: chị là Trưng Trắc còn em là Trưng Nhị. Cả hai bà dều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Trưng Trắc có chồng là Thi sách. Thi Sách là Lạc tướng cũng cùng chí hướng với vợ.Tướng giặc là Tô Định làm Thứ sử Giao Châu thời ấy biết được bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Nợ nước, thù nhà, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Quân của hai bà đi đến đâu, giặc tan đến đó. Với đoàn quân khởi nghĩa hừng hực khí thế chiến đấu và chiến thắng, Hai Bà Trưng tiến về giải phóng thành Luy Lâu. Tướng giặc Tô Định tháo chạy về nước. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương. 

Năm 43, quân giạc cử Mã Viện, đại tướng lão luyện đốc quân đàn áp cuộc khởi nghĩa, Hai Bà Trưng lãnh đạo quân ta chiến đấu anh dũng nhưng vì thế giặc quá mạnh, yếu thế, Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Dân ta lại chìm trong vòng áp bức của quân giặc phương Bắc. Dù vậy, tấm gương oanh liệt của Hai Bà Trưng vẫn ngời sáng nghìn thu.

Nguồn: https://lazi.vn/edu/exercise/viet-bai-van-noi-len-suy-nghi-cua-em-ve-nhan-vat-lich-su-hai-ba-trung

Chúc bạn học tốt !!!

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa

Văn học Việt Nam có nhiều áng văn chương tuyệt tác, ca ngợi cuộc khởi nghĩa hào hùng năm 40 của Hai Bà Trưng cùng toàn dân phá ách nô lệ Đông Hán giành độc lập cho nước ta, thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.

Trong số đó, bài Trưng Nữ Vương (1939) của nữ sĩ Ngân Giang bằng những vần thơ mỹ lệ đã đồng cảm, tinh tế chia sẻ với nỗi niềm chất chứa “nợ nước, thù chồng” của bà Trưng Trắc:

Trên ngai vàng cao trọng, giữa cung điện huy hoàng, bốn bề núi sông, quân thù sạch bóng, nỗi sầu cô quạnh của bà Trưng mới da diết làm sao!

Bà đang thầm nhớ một người, đang trĩu nặng một nỗi lo trọng đại...

... Thi Sách, người chồng anh hùng bạc mệnh. Lương duyên giữa ông và bà - giữa hai gia đình Lạc tướng Chu Diên và Mê Linh - là mối dây liên kết đầy triển vọng, hợp quần sức mạnh dân Việt.

Đó cũng là cái gai chọc vào mắt quân đô hộ.

Giết được ông, thái thú Tô Định vội mừng đã trấn áp được tinh thần dân chúng. Hắn phải kinh hoàng tháo chạy cùng tàn quân Hán khi hùng binh tướng sĩ theo bước voi chiến Hai Bà Trưng, ồ ạt tràn vào thành Luy Lâu như nước vỡ bờ.

Nỗi căm hờn quân bạo ngược dồn nén bấy lâu, món nợ với non sông đang chìm đắm trong xích xiềng nô lệ nay lại thêm mối thù chồng. Phẫn uất như giọt nước tràn ly đã tiếp thêm sức mạnh quật cường cho hai bà cùng dân tộc Việt vùng lên đánh đuổi quân thù ra khỏi biên cương.

... Nợ nước đã lo. Thù chồng đã trả. Trên ngôi nữ vương một nước độc lập tự chủ bà Trưng vẫn chưa thể an lòng. Kẻ thù hùng mạnh, hiểm ác có khi nào nguôi dã tâm xâm lược. Nhất định chúng không để yên lâu dài cho nước ta...

Năm tháng đi qua, tên tuổi Hai Bà Trưng mãi mãi sáng ngời lịch sử.

Nỗi niềm nợ nước thù chồng thuở nào bà Trưng đã lo toan trọn vẹn. Điều còn đọng lại là bài học nằm lòng cho hậu thế. Nước mất ắt nhà tan. Đó là điều tất yếu.

Phụ nữ nước Nam với truyền thống “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!” phải chăng đã được khởi xướng từ thời đại oai hùng của hai bà?

Xin hai bà hãy an nghỉ trong khói hương muôn đời tưởng nhớ!

Hồn thiêng sông núi, tiền nhân hãy yên lòng!

Cháu con đời sau sẽ mãi mãi khắc ghi những bài học lịch sử máu xương!

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Thị Minh Thư
Xem chi tiết
Thuận Quốc
17 tháng 12 2016 lúc 20:59

Bài làm:

Những kỉ niệm về người bà tràn ngập yêu thương làm cho người chiến sĩ (người cháu) thêm vững bước trên đường ra trận. Người bà tần tảo chắt chiu trong cảnh nghèo, dành trọn vẹn tình yêu thương, quan tâm, chăm lo cho cháu, bảo ban nhắc nhở cháu. Qua những kỉ niệm về người bà đã biểu hiện tình bà cháu thật là thiêng liêng, sâu nặng và thắm thiết: bà chắt chiu, chăm lo cho cháu. cháu yêu thương kính trọng và biết ơn bà.

Bình luận (1)
Linh Phương
17 tháng 12 2016 lúc 21:05

Người xưa đã có câu ” Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”. Có gì tuyệt vời hơn khi cháu được bộ quần áo mới để chơi Tết? niềm vui còn trọn vẹn hơn khi tấm áo ấy là tất cả tình thương, đó là thành quả sau bao ngày vất vả, là sự hi sinh thầm lặng của bà.Chỉ với âm thanh tiếng gà trưa nhưng người chiến sĩ đã nhớ về bao kỉ niệm, về lời nói, cử chỉ của bà. Điều đó chứng tỏ tình cảm dành cho bà luôn thường trực trong tâm hồn đứa cháu. Cháu vô cùng yêu quý, kính trọng và biết ơn bà. Qua những khổ thơ chứa đầy tình yêu thương, ta thầm cảm phục và ước ao có một tình bà cháu sâu nặng, thắm thiết như thế. Đối với người chiến sĩ, tình cảm bà cháu chính là quãng thời gian đẹp nhất của tuổi ấu thơ.

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Thành Đạt
17 tháng 12 2016 lúc 22:17

"Bà" - Một tiếng gọi bình dị mà chan chứa bao tình cảm yêu thương. Hình ảnh người bà thân quen trong cuộc sống, hiền hậu ôn tồn chỉ bảo cho con cháu nhân đạo và lẽ đời. Người bà luôn yêu thương, quan tâm và lo lắng cho những đứa cháu nghịch ngợm.... Ta có thể tìm được một người bà như thế trong bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. Bài thơ đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là vẻ đẹp bình dị của tình bà cháu.
Bài thơ năm chữ tự do đã cho ta thấy những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ, tình bà cháu nồng hậu và lòng yêu nước sâu nặng của một người chiến sĩ.
Trên đường hành quân xa, người chiến sĩ dừng chân bên xóm nhỏ. Nghe tiếng gà "cục tác...cục ta", anh xúc động vô cùng. Dòng cảm xúc từ hiện tại trôi về quá khứ với bao kỉ niệm cảm động lại tràn về.

Bình luận (0)