Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Anh ko có ny
Xem chi tiết
Vương Hương Giang
15 tháng 2 2022 lúc 14:12

TK 

Gần hết năm rồi. Đi ra chợ, hàng rau – quả – củ…, cứ cách vài bước đã thấy người ta đổ đông kiệu bán. Để làm kiệu, phải có giấm. Thế nên, tôi lại nhớ một “món” mà mẹ hay làm: giấm nuôi.

Mẹ tôi hay mua chuôi xiêm cho cả nhà ăn. Lâu lâu, tôi thấy mẹ cất riêng ra vài trái, để chín muồi. Lúc nào như vậy, tôi biết mẹ tôi định làm giấm mới. Trước tiên, mẹ tôi đã chuẩn bị một cái hũ dung tích khoảng 2 – 3 lít, đã được rửa sạch và thật khô, rồi mẹ tôi cho khoảng nửa xị rượu đế, nước dừa tươi lọc thật sạch, không có một chút bụi nào vào hũ. Kế đến, mẹ tôi lột vỏ chuôi, lột hết những đường chỉ còn bám thân trái chuôi, để lộ một lớp cám óng ánh, chuôi chín có mùi thơm ngọt thật dễ chịu dễ thèm(nhưng lúc ấy, có thèm cũng không được, vì mẹ đã dành làm giấm mà)

Đoạn, mẹ đặt trái chuối nằm lên mặt thớt (cũng thật sạch và khô), mẹ dùng con dao to bản, ép nhẹ trái chuối cho dẹp xuống, rồi cho vào trong hũ hỗn hợp nước dừa, rượu trắng để sẵn. Cứ thế, với trái thứ hai, thứ ba. Một hũ, nhiều lắm là ba trái chuôi thôi. Sau đó, mẹ đậy nắp hũ lại, rồi cẩn thận bao quanh hũ bằng một lớp giấy báo. Mẹ nói: không ai được tò mò mà mở ra nhìn đó nhé, vì nó mắc cỡ, sẽ không thành giấm đâu. Và mẹ giấu kĩ vào góc khuất của tủ chén.

 

Độ đôi ba tháng, khi lũ nhỏ chúng tôi quên khuây đi mất, thì mẹ kêu chúng tôi vào bếp, mở lớp giấy báo bọc ngoài hũ ra cho chúng tôi xem. Thích chưa bơi là đà trong hũ là những màng trăng trắng, mẹ tôi gọi đó là con giấm. Trong khi chúng tôi còn tròn mắt ngạc nhiên, mẹ đã đưa ngón tay trỏ lên môi, ra dấu suỵt như thể ngăn chúng tôi đừng làm ồn, kẻo con giấm kinh động mà biến mất vậy. Rồi mẹ lại cẩn thận bọc giấy báo lại, cất đi.

Khi mẹ tôi bắt đầu chiết giấm, là chúng tôi biết mẹ đã tính tới làm điệu, làm đồ chua bao nhiêu hũ, hũ lớn, hũ nhỏ, hũ nào nhà dùng, hũ nào đem biếu. Trước Tết ta độ nửa tháng, mẹ tôi nấu giấm đường, để nguội rồi rót vào hũ cho ngập kiệu, củ cải (đã được cắt tỉa, phơi nắng). Giấm đường mẹ tôi nấu khá đặc, làm cho kiệu, củ cải bóng mật, mau chua mà giòn vị đậm đà rất riêng biệt. Ai ăn dưa kiệu mẹ tôi làm, đều khen ngon, hương giấm khó quên.

Mấy hũ giấm nuôi ấy tiết kiệm cho mẹ tôi tiền mua chanh. Nhà tôi hay ăn nước – mắm – giấm hơn là nước – mắm – chanh. Xa mẹ, tôi không có thói quen làm giấm, nhiều khi đi mua giấm ở tiệm, ngửi mùi là chỉcó đổ đi chứ không ăn nổi. Và vì thế, tôi lại đổi thói quen ra làm nước mắm chanh. Nhưng cứ cuối năm ta, chanh thường lên giá, rồi lại cần giấm để làm kiệu, tôi lại nhớ giấm mẹ tôi nuôi.

ph@m tLJấn tLJ
15 tháng 2 2022 lúc 14:13

văn à anh 

Dark_Hole
15 tháng 2 2022 lúc 14:13

Tham khảo: 

Thời còn học phổ thông ở miền Bắc lần đầu tiên tôi được dùng cỗ chay ở một ngôi chùa nhỏ. Gọi là cỗ cho oai chứ ở vùng quê nghèo chỉ có vài món "sở trường": Rau muống luộc, nộm đu đủ xanh (trộn với lạc), chuối xanh om với đậu phụ, lá tía tô, khoai sọ (khoai môn sáp vàng) nấu canh, đĩa muối vừng (mè) đen, đĩa muối lạc (đậu phụng). Sang nhất là món đậu phụ rán, đậu đũa xào và đậu phụ kho với nước tương đậu nành.

Thời ấy ở vùng sơn cước và đang chiến tranh, lưu thông trắc trở, làm gì có các loại nấm, có xì dầu để chế tác ra những món vừa ngon vừa bắt mắt như cỗ tiệc chay bây giờ. Thế nhưng, khi bày biện lên, dù chỉ có rau, củ, quả trong vườn nhưng cũng đủ các sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng, trắng hồng tỏa hương thơm đặc trưng của đồng nội, tinh hoa của đất trời.

Từ xa xưa đến giờ, ở đây nhà chùa vẫn làm cỗ chay từ những nguyên liệu tự cung tự cấp. Ấy vậy mà với chúng tôi hồi đó trừ ba ngày tết thì nằm mơ cũng không có được bữa chay như thế. Tuổi thơ quanh năm vơi các món chủ lực là dưa cà mắm muối. Canh rau muống, cà pháo đạm bạc, nhưng là hương vị thân thiết của quê nhà, là nỗi nhớ da diết lòng người mỗi lúc đi xa. Những món ăn dân dã đơn sơ ấy đủ no lòng mát dạ để tuổi thơ chạy nhảy suốt ngày, lớn lên lao động, học hành thành đạt, nên người.

Sau năm 1975 gia đình tôi hồi hương về Huế, các món chay nhanh chóng trở nên thân thiết và khoái khẩu. Món ăn ngon ngoài bản thân nó còn nhờ nghệ thuật chế biến và gia vị kèm theo. Món mặn đã vậy, với các món chay thì gia vị càng quan trọng hơn.

Đặc sản "quê hương tuổi thơ tôi" cũng có bánh đa, bánh đúc. Thuở nhỏ chúng tôi thường ăn bánh đúc chấm nước mắm, chấm ruốc. Có lần, để đổi món, mẹ tôi làm bánh đúc chấm với nước tương đậu nành. Trời mùa đông, miếng bánh đúc nóng hổi, mới bốc hơi đã nghe cái mùi nồng nồng của vôi lẫn trong bột bánh, quyện với mùi hành phi trong chén nước tương đã làm cho cái lạnh tự nhiên tan biến mất.

Mẹ giải thích: Mùa hè nắng nóng thì ăn bánh đúc với giá đỗ, rau kinh giới, chấm với nước tương nguyên chất (không cần phải phi hành cho nóng) ăn đến đâu mát đến đó. Miếng bánh đúc màu trắng đục chấm với tương màu nâu hồng đặc sánh, vừa ngon vừa thân thuộc vô cùng. Xuất thân trong một gia đình dòng dõi hoàng tộc nhưng mẹ tôi rất sành các món dân dã và "hội nhập" rất nhanh với "đặc sản" vùng sơn cước Nghệ Tĩnh.

Dì Ba kể, mẹ cháu sướng lắm, chỉ biết học, không phải đi chọ nấu ăn như dì. Mẹ biết nấu ăn ngon là nhờ thưở học trường Đồng Khánh có môn nữ công gia chánh, đi tản cư nhớ và vận dụng. Sau này tôi mới biết hồi ấy mẹ đã thuộc lòng nhiều bài thơ trong cuốn "Thực phổ bách thiên" của bà Trương Đăng Thị Bích, con dâu ông hoàng thơ Tùng Thiện Vương. Mỗi lần nấu canh mít non mẹ bảo tôi đi hái đọt sân ở các hàng rào vườn nhà hàng xóm làm gia vị, trong khi dân ở đây chỉ biết nấu với lá lốt mọc um tùm. Mẹ đã bày cho tôi theo chỉ dẫn từ câu "Canh mít ưa dùng sân với lốt/Bí ngô thì phải tỏi gia vào",…

Khi gia đình đã về Huế, tôi còn học đại học ở Vinh. Mỗi lần về nghỉ hè, nghỉ tết tôi xách theo mấy chai nước tương đặc sản Nam Đàn. Nước tương dùng để chấm rau muống luộc, để kho cá đồng thì khỏi chê. Tôi có bà cô là em họ ông ngoại, cũng từ Huế ra miền Bắc trong kháng chiến chống Pháp, cũng đã từng ở Nam Đàn. Bà dặn lần sau về mua thêm cho bà một chai để biếu người bạn ở trên chùa. Bà nói, tương nhà chùa làm rất ngon, do chính tay các sư cô làm. Nhưng tương Nam Đàn đậm đà, có mùi vị riêng và bổ hơn nhờ chất lượng hạt đậu nành. Xin được nói thêm, đậu nành rất giàu đạm, giá trị bổ dưỡng không thua kém gì thịt, cá. Đậu nành còn cho ta sữa mà cả thế giới đều mê, loại sữa thực vật không thua kém sữa động vật.

Tôi hỏi vì sao tương Huế có hương vị khác tương Nam Đàn, vốn đã nổi tiếng, từ lâu đã được đưa vào "từ điển" dân gian: "Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn". Bà cười nói, chẳng có bí quyết gì cả, cái chính là ở tay người làm. Hồi ở Hà Nội có lần bà cũng đã hỏi một người chuyên làm tương bán buôn, vì sao cũng tương Bần mà có người làm ngon có người làm không ngon? Bà này trả lời: Làm quan có mả, ngả tương có tay. Ngoài Bắc người ta gọi là ngả tương, nén cà. Nén cà cũng phải có tay thì mới vừa độ mặn và trắng, giòn. Nhà chùa có cái tâm thanh tịnh, thư thái nên làm gì kết quả cũng mãn nguyện, chuyện chế tác các món chay cũng như thế.

Tôi nghĩ rằng ngon ít ngon nhiều còn tùy thuộc khẩu vị, sở thích mỗi người. Tương Nam Đàn hương vị khác tương Huế, tương Bần nhưng kể về số lượng thì đầu bảng. Không có vùng quê nào tương nhiều như ở Nam Đàn và nhút nhiều như ở Thanh Chương. Cà pháo cũng không có nơi nào vừa ngon vừa giòn vừa nhiều như ở xứ Nghệ. Nguyên Ngọc nói núi Ngọc Linh, ở Quảng Nam, có mỏ đá mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa. Bài "Trường ca cây cà" của Phùng Quán kết thúc bằng hai câu: "Tổ quốc ta đủ cà đủ muối/Đủ đất nung một ngàn chiếc vại". Nhưng đó là cách nói khiêm tốn trong thi ca. Có lần trên chiếu rượu Phùng quán hào sảng: Đất Nghệ Tĩnh có dư cà ăn để đánh thắng mười thằng đế quốc, thực dân xâm lược. Người xứ Bắc có câu "Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương". Bên cạnh cà pháo (quả nhỏ) người nông dân còn chọn cà dừa (quả lớn) dầm tương để ăn quanh năm bốn mùa.

Mùa hè năm 1992, anh bạn tôi từ Sài Gòn điện thoại ra nhờ một việc hết sức hệ trọng. Anh lỡ hứa với mấy người bạn từ Pháp về là tổ chức đi tour ra Huế ba ngày, mỗi ngày sẽ được đi thăm ít nhất ba điểm, ăn ba bữa, mỗi bữa 5 món. Từ đi chơi đến đi ăn đều không được "đụng hàng". Chơi thì không có chỗ nào giống chỗ nào. Ăn thì không có món nào được lặp lại lần thứ hai. Bây giờ nhà nhà làm dịch vụ, sản phẩm du lịch phong phú, nhà hàng đặc sản mọc ra như nấm. Nhưng hồi đó mới mở cửa, đổi mới được vài năm, đáp ứng được yêu cầu này quả không dễ.

Tôi phải mất không dưới ba lần ngồi thiết kế tour và lên thực đơn mới tạm ổn. Ngày thứ ba cạn nguồn. Buổi sáng tôi dẫn cả đoàn sang cầu Đông Ba ăn cháo gạo với cá bống kho rim. Ai không hợp khẩu vị thì ăn xôi, cũng với cá bống và tôm rim khô cứng. Ai ăn chay thì dùng xôi với muối mè, muối đậu phụng, uống sữa đậu nành.

Hôm ấy du thuyền về Cồn Hến, Bao Vinh rồi ngược lên thăm chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén nên buổi trưa tôi thiết kế bánh chưng Nhật Lệ ăn với dưa món, bánh mỳ kẹp chả, hoặc mỳ bơ cho người ăn chay, thâm xâu nem – tré lai rai trên thuyền. Tráng miệng thì dùng Thanh Trà và khế ngọt mua ngay trong vườn một nhà người quen ở Nguyệt Biểu. Buổi tối, kết thúc tour ba ngày bằng bữa cơm chay. Đó là "bữa cơm chay nhớ đời" như lời phát biểu cảm tưởng của các vị khách Việt Kiều sau khi chắp tay vái, nói lời cám ơn và chào tạm biệt sư cô trụ trì.

Anh bạn tôi năn nỉ mãi tôi mới lên chùa Hương Sơn cậy nhờ Ni sư Minh Bổn lo giúp. Bữa cơm chay đãi khách nên có vài món giả mặn: Chả giò, chả quế nem rán, thịt gà xé, thịt heo quay, cá thu sốt cà chua. Còn lại cũng đến gần chục món là đồ chay nguyên bản, chay đúng nghĩa với cái thanh tịnh làm đầu: Đậu phụ chiên vàng, ớt đỏ, cơm trắng, rau xanh luộc chín chấm tương hồng… Món nào cũng đậm đà, mát ngọt lạ thường. Rau muống chẳng cần mắm nêm, rau cải chẳng cần nước mắm nhĩ, đậu phụ chẳng cần ruốc thơm… Nước chấm chủ lực vẫn là tương và xì dầu nhưng nhìn mâm cỗ tưởng như thấy cả tinh khí đất trời tụ họp cả ở đây. Các sư cô như có phép lạ. Qua bàn tay vàng của họ các món ăn dân dã nào cũng đều trở thành đặc sản, thành ngự thiện, dù có gia thêm tôm, thịt, trứng, ốc, hến… thì cũng chỉ ngon được đến thế mà thôi. Tất nhiên, tôi phải dặn trước anh bạn, vì rất quý tôi nên các cô mới làm giúp bữa tiệc chay này. Nhưng các ông không được uống bia, mà chở theo xe thùng nước khoáng và thùng Coca Cola. Phải sắm một mâm trái cây thật đẹp mắt, trước khi dùng bữa phải lên chính diện dâng hương đảnh lễ Phật.

Vừa thấm đói vừa lạ miệng ai cũng không ngớt lời khen ngon. Ni sư Minh Bổn hình như cũng thấy mát lòng và vui lây. Sư đi quanh bàn giới thiệu đặc điểm và cách chế tác từng món. Sư bảo: Muốn nấu ăn ngon thì người nấu phải thực lòng mong muốn người thưởng thức được ngon miệng. Tấm lòng người nhà Phật chỉ mong cái an bình, phúc hạnh đến với mọi người, cho nên các món ăn cũng phải thanh tao và có sự hướng thiện… Mấy ông khách Việt kiều dùng đũa nghe như nhấm nháp từng câu, từng lời.

Ăn chay từ xa xưa đã là một đặc sản của Huế. Nghệ thuật chế biến các món ăn chay ở Huế trở thành một đỉnh cao là nhờ vai trò "thủ đô Phật giáo" của Huế. Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn lấy Phật giáo làm Quốc giáo, cả Hoàng tộc nhà Nguyễn theo đạo phật. Cả một tầng lớp quý tộc từ sành đến "nghiện" ăn chay. Không những chỉ có các tu sĩ Phật giáo ăn chay mà trong các gia đình Phật tử mỗi tháng ít nhất cũng có hai ngày ăn chay cho nên các món chay ở Huế vừa phong phú vừa ngon và sang trọng. Nếu khách đến Huế mà được mời một bữa cơm ngự thiện tại một phủ đệ, hay một bữa cơm chay ở một ngôi chùa thì đó là một sự ưu ái và quý mến đặc biệt của gia chủ.

Ni sư Minh Bổn tiễn cà đoàn đến tận tam quan. Chúng tôi lên xe, trở dốc Nam Giao về khách sạn. Mấy vị khách Việt kiều thổ lộ, trong lòng mình cứ lâng lâng như vừa trở về từ cõi Phật, như vừa bước ra từ một giấc mơ êm dịu trong cổ tích ngày xửa ngày xưa

Trương Quỳnh Trang
Xem chi tiết
Hà Việt Chương
20 tháng 4 2017 lúc 9:22

Những món ăn mà em đã dùng trong các bữa ăn hàng ngày: Thịt rang, thịt luộc, cá nấu, cá rán, cá kho, đậu phụ rán, nem, rau,…

Cao Quang
17 tháng 4 2021 lúc 13:50

ăn rau, thịt luộc ,canh rau , đậu rán,...

nhận xét :ăn như vậy đã hợp lí 

Thiên Hà Hà
Xem chi tiết
Trương Quỳnh Trang
Xem chi tiết
Hà Việt Chương
31 tháng 12 2019 lúc 4:21

 Những món nướng mà em đã được ăn: Khoai nướng, thịt lợn nướng,…

nguyễn tuấn dũng
Xem chi tiết

Các món đó là:khoai lang nướng,vịt nướng,lợn nướng,....

Nhận xét:các món đều rấ ngon và có các hương vị rất đa dạng,trong đó có một số món ăn nhiều sẽ hơi ngán.

Gà mê đam
25 tháng 2 2021 lúc 19:15

Những món nướng mà em đã được ăn: Cá nướng, thịt lợn nướng, tôm nướng,...

Nhận xét: đồ ăn chín đều, không dai, ngon, đậm đà.

Chúc bạn học tốt  haha

Chi Bui
10 tháng 3 2021 lúc 22:10

những món nướng mà em đã được ăn: thịt nướng, vịt nướng,..

nhận xét: vị ngon, đậm đà, màu vàng nâu, chín đều

Phuong Tran Vu Hanh
Xem chi tiết
Phuong Tran Vu Hanh
13 tháng 1 2022 lúc 14:06

giúp mình đi 

hung phung
Xem chi tiết
Lưu Anh Tú
Xem chi tiết
Nguyễn Thị Phương Anh
15 tháng 11 2021 lúc 16:31

4 món ăn là:  phở bò Nam Định, nem nắm Giao Thủy, bánh gai Nam Định, bánh xíu páo

Đặt câu:  

- Xíu páo là loại bánh có vỏ mỏng như bánh trung thu nướng nhưng mềm và thơm hơn.

- Những nguyên liệu đã tạo nên một mùi vị khác biệt biệt mùi thơm của gạo, ngọt của sen và dừa.

_HT_

 Mình sinh ra và lớn lên ở Nam Định nên bạn cứ yên tâm là đúng nhé!

Khách vãng lai đã xóa
hoangyennhi
15 tháng 11 2021 lúc 16:37

4 món ăn đặc sản của tỉnh nam định là:

1. Phở bò

2. Bún đũa

3. Xôi xíu

4. Bánh Xíu Páo

Đặt câu:

- Em rất thích ăn phở bò

- Bà em nấu xôi xíu rất ngon

Khách vãng lai đã xóa
Đệ Nhất Triệu Vân
Xem chi tiết
Nguyễn Phương Anh‏
3 tháng 12 2018 lúc 18:03

Mỗi người có khẩu vị và món ăn yêu thích khác nhau. Em cũng vậy, món ăn khoái khẩu nhất của em là món cơm hến.

Cơm hến là món ăn dân dã, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị. Cơm cồn hến người ta còn cho nó cái tên sang trọng: “Cao lâu cồn” để tôn vinh cái giản dị, mộc mạc, thanh đạm mang đầy chất Huế.

Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương… Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi, kêu cái “bụp!” rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon cơm hến. Thế nên, có người còn gọi là “món ngon trời hành”.

Các thôn nữ đội nón lá mỗi sáng gánh cơm hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao lanh lảnh ngọt ngào “hến khô… ông” là hình ảnh và âm điệu không thể nào quên của những người xa Huế.

* Hok tốt !

# Miu

Đức Minh Nguyễn 2k7
3 tháng 12 2018 lúc 18:04

Mỗi người có khẩu vị và món ăn yêu thích khác nhau. Em cũng vậy, món ăn khoái khẩu nhất của em là món cơm hến.

Cơm hến là món ăn dân dã, nghèo mà vẫn sang, đậm đà hương vị. Cơm cồn hến người ta còn cho nó cái tên sang trọng: “Cao lâu cồn” để tôn vinh cái giản dị, mộc mạc, thanh đạm mang đầy chất Huế.

Cơm hến là món ăn cay, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi. Cơm của cơm hến là cơm nguội, mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ, vị cay đến xé lưỡi, đến phỏng miệng của ớt tương… Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi, kêu cái “bụp!” rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon cơm hến. Thế nên, có người còn gọi là “món ngon trời hành”.

Các thôn nữ đội nón lá mỗi sáng gánh cơm hến đi khắp các ngả đường cất tiếng rao lanh lảnh ngọt ngào “hến khô… ông” là hình ảnh và âm điệu không thể nào quên của những người xa Huế.

Đệ Nhất Triệu Vân
3 tháng 12 2018 lúc 18:05

BẠN CƠM HẾN HAY GHẾ , CÓ AI CHƠI GUNNY GÀ CHU TƯỚC HO ?