Viết một đoạn văn ngắn nêu cản nghĩ của em về nhân vật anh Ba
Viết một đoạn văn ngắn nêu cản nghĩ của em về nhân vật anh Ba ( Đạo đức Hồ Chí Minh) câu chuyện hai bàn tay
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật Hoàng tử bé
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật Kiểu Phương.
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật anh trai Kiều Phương
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật cáo.
- Viết đoạn văn ngắn( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật Dế Mèn.
- Viết đoạn văn ngắn( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật cô bé bán diêm.
- Viết đoạn văn ngắn( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật Sơn.
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận về một đoạn thơ có yếu tố tự sự và miêu tả trong một bài thơ đã học ở sgk ngữ văn 6 tập 1 mà em thích.
Tham khảo
Kiều Phương là 1 cô bé hiếu động và rất đam mê hội họa . Ở cô dậy lên những phẩm chất đáng quý , đó là sự hồn nhiên , trong sáng và nhân hậu . Khi bị anh trai gọi là Mèo , cô không buồn hay giận mà còn vui vẻ chấp nhận và thường dùng tên ấy để xưng hô với bạn bè . Mặt cô lúc nào cũng lấm lem màu vẽ do cô tự sáng chế . Bị anh la mắng thì Mèo vênh mặt lên . Mặc dù tài năng hội họa của cô được mọi người đánh giá rất cao nhưng cô vẫn giữ được tâm hồn trong sáng , hồn nhiên . Tuy hay bị anh la mắng nhưng cô vẫn dành cho anh những tình cảm thật tốt đẹp và rất trân trọng anh . Những tình cảm đó đã được thể hiện ở bức tranh đoạt giải nhất của cô . Khi dự thi trở về , mặc dù trước thái độ lạnh nhạt của anh trai , Mèo vẫn kêu anh cùng đi nhận giải với mình. Em rất thích nhân vật Kiều Phương này!
Tham khảo
Hoàng tử bé chính là một mảng tuổi trơ trong trẻo và mát lành. Hoàng tử yêu mến đóa hoa hồng lấp lánh, lung linh bởi những điều mà đôi mắt không nhìn thấy được nhưng chính cậu không biết mình bị vẻ đẹp bên ngoài đánh lừa nên quên đi bản chất của tình yêu. Đó là sự rung cảm xuất phát từ trái tim. Hoàng tử bé cũng nhận ra sự liên hệ của mình với con cáo là nhờ sự cảm hóa. Cậu đã dành thời gian, công sức, sự kiên nhẫn, dịu dàng từng chút một để có thể đến gần nó hơn.
tham KHảo
Lúc trước, anh trai của Kiều Phương là một người anh lúc nào cũng xem thường em gái mình. Khi thấy em mình có tài năng hội hoạ,người anh ghen ghét với tài năng của em.Người anh cảm thấy như bị lãng quên vì mình không có chút năng khiếu gì. Trước lúc em đi thi vẽ,người anh tỏ ra vẻ bực tức và thường xuyên hắt hủi em gái. Khi đứng trước bức tranh vẽ về mình được treo lồng kính, người anh cảm thấy ngỡ ngàng, rồi đén sự hãnh diện và cuối cùng là sự xấu hổ. Người anh cảm thấy vô cùng ân hận vì lúc trước đã không đối xử tốt với em gái của mình. Người anh không ngờ trong mắt em gái mình, mình là một người anh hoàn hảo đến vậy.Bây giờ người anh cảm thấy yêu em gái mình hơn.
nêu suy nghĩ của em về nhân vật ông giáo trong văn bản Lão Hạc. hãy viết một đoạn văn ngắn nói về suy nghĩ của em
Tham khảo:
Một trong những nhân vật để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất trong tiến trình văn học Việt Nam đó chính là nhân vật Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Ông là một người nông dân nghèo, vợ mất sớm, con bỏ đi làm đồn điền cao su, lão sống lủi thủi với con chó và chỉ có nó bầu bạn với lão hằng ngày, cái nghèo đói khiến lão rau cháo qua ngày cuối cùng bần quá nên đã bán chó; vì quá ăn năn hối hận nên lão đã tìm đến cách ăn bả chó để tự tử. Thật đáng thương cho một kiếp người. Một con người hiền lành, chất phác, giàu tình yêu thương lại có một cái kết vô cùng đáng thương. Nhân vật đã mang đến cho chúng ta nhiều cảm xúc vô cùng đặc biệt: sự cảm thông với một người nghèo khổ, tình yêu thương dành cho một người bất hạnh, sự nể phục dành cho một người cha yêu con, một người chủ yêu chó. Hình ảnh lão Hạc là đại diện cho người nông dân ở giai đoạn đó bị xã hội đẩy vào bước đường cùng, để giữ lại phẩm giá của mình họ đã phải tìm đến cái chết kết thúc một kiếp người đầy tội nghiệp. Không chỉ lão Hạc mà những nhân vật khác trong giai đoạn này cũng xứng đáng nhận được tình yêu thương của độc giả mọi thời kì. Nhân vật lão Hạc nói riêng và người nông dân nói chung là một đề tài quen thuộc đã và đang là chủ đề được khai thác nhận được sự quan tâm đặc biệt từ bạn đọc. Nhiều năm qua đi nhưng lão Hạc vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật Kiểu Phương.
- Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 câu) nêu cảm nhận của em về nhân vật anh trai Kiều Phương
Em tham khảo:
Bài 1:
Kiều Phương là 1 cô bé hiếu động và rất đam mê hội họa . Ở cô dậy lên những phẩm chất đáng quý , đó là sự hồn nhiên , trong sáng và nhân hậu . Khi bị anh trai gọi là Mèo , cô không buồn hay giận mà còn vui vẻ chấp nhận và thường dùng tên ấy để xưng hô với bạn bè . Mặt cô lúc nào cũng lấm lem màu vẽ do cô tự sáng chế . Bị anh la mắng thì Mèo vênh mặt lên . Mặc dù tài năng hội họa của cô được mọi người đánh giá rất cao nhưng cô vẫn giữ được tâm hồn trong sáng , hồn nhiên . Tuy hay bị anh la mắng nhưng cô vẫn dành cho anh những tình cảm thật tốt đẹp và rất trân trọng anh . Những tình cảm đó đã được thể hiện ở bức tranh đoạt giải nhất của cô . Khi dự thi trở về , mặc dù trước thái độ lạnh nhạt của anh trai , Mèo vẫn kêu anh cùng đi nhận giải với mình. Em rất thích nhân vật Kiều Phương này!
Bài 2:Trong văn bản “Bức tranh của em gái tôi” của Tạ Duy Anh, em cảm thấy rất ấn tượng trước tâm trạng của nhân vật người anh. Lúc đầu, cả nhà ai cũng vui mừng trước tài năng của Kiều Phương nhưng trừ người anh. Cậu cảm thấy mặc cảm, thấy mình bất tài, đôi khi cậu còn muốn khóc thầm. Chỉ cần một lỗi nhỏ ở người em cũng đủ để cậu nổi nống, khó chịu. Lúc bấy giờ, chỉ có những cảm giác khó chịu, ghen ghét trong người anh trai. Tuy vậy nhưng cậu vẫn quan tâm đến em, lén xem tranh của em, lặng lẽ thở dài. Nhưng khi Mèo ôm cổ muốn cùng cậu đi nhận giải, cậu còn đẩy em gái ra. Nhưng khi nhìn thấy bức tranh đạt giải nhất của em gái, cậu ngỡ ngàng, sau đó là hãnh diện, rồi cuối cùng là xấu hổ. Cậu ngỡ ngàng vì người em gái mà cậu đã ghen ghét, đố kị lại vẽ cậu, cậu hãnh diện vì bức tranh đó đã đạt giải nhất. Còn cậu đã xấu hổ vì Mèo vẽ cậu đẹp quá, cậu thì không được đẹp như trong tranh. Người anh chính là hiện thân của sự đố kị, ghen ghét. Nhưng cậu cũng đã biết nhận ra lỗi lầm của mình và thấy được tình cảm nhân hậu, trong sáng của Kiều Phương.
nêu suy nghĩ của em về nhân vật lão học. hãy viết các suy nghĩ đấy bằng một đoạn văn ngắn
Tham khảo:
Trong văn bản" Lão Hạc" của Nam Cao, lão Hạc là hình ảnh điển hình cho những người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 có cuộc sống nghèo khổ nhưng phẩm chất vô cùng cao đẹp. Lão là 1 người giàu lòng yêu thương, sống nhân hậu và có lòng tự trọng cao. Tuy vậy nhưng lão có cuộc sống nghèo khỗ, cô đơn. Vợ lão mất sớm, con trai duy nhất thì phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su, sống cô đơn với 1 con chó để bầu bạn, tải sản chỉ có 1 mảnh vườn và 1 ít tiền. Sau khi bán cậu Vàng - người bạn duy nhất khi về già, lão thấy hối hận, sống day dứt, dằn vătt, đau xót tột cùng. Lão Hạc là người có ý thức cao về lẽ sống nên sau khi gửi số tiền ít ỏi cho ông giáo thì lạo từ chối tất cả cái gì mà ông giáo cho. Vì là người có lòng tự trọng nên sau khi chết lão ko muốn lảm phiền tới hàng xóm,nhờ ông giáo lấy số tiền đó để làm ma chay. Mọi người trong làng ko ai hiểu nguyên nhân tại sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu. Trong xã hội thực dân phong kiến, lão Hạc như ngọn đèn lay lắt trước gió. Qua văn bản "Lão hạc", tác giả đã cho ta thấy phẩm giá tốt đẹp và nhân cách trong sạch của lão Hạc nói riêng cũng như những người nông dân nói chung.
bạn tham khảo nhé
Lão Hạc có một cuộc đời hết sức bi thảm (nàh nghèo, vợ mất sớm, gà trống nuôi con, con trai thì đi làm xa,...)
- Nhưng lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu. (yêu quý con Vàng, hết mực thương yêu con trai, đức tính tự trọng đáng quý.)
- Lão Hạc là một nhân vật điển hình cho tầng lớp nông dân trong xã hội cũ... Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật...
bài tham khảo
Lão Hạc là một nhân vật thành công mà Nam Cao đã xây dựng lên. Cuộc đời bi thảm của lão Hạc đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc khó quên. Lão có một người vợ và một người con trai độc nhất. Vợ lão mất sớm, do không đủ tiền cưới vợ, con trai lão phẫn trí bỏ đi phu đồn điền cao su. Trước khi đi lão được người con trai trao lại một kỉ vật là một con chó vàng nên lão rất yêu thương và đặt cho nó một cái tên hay Cậu Vàng. Năm ấy do đói kém mất mùa, bão lũ cướp hết toàn bộ số hoa màu của lão và lão còn bị một trận ốm nặng. Cuộc đời đau khổ dồn ép lão đến bên bờ vực thẳm, không còn cách nào khác, lão đành phải đứt ruột mà bán đi con chó Vàng lão hằng yêu thương; để rồi khi bán xong, lão lại hu hu khóc như con nít. Sợ sống mà ảnh hưởng tới con trai, vì đã trót lòng lừa gạt một con chó, lão quyết định chết bằng bả chó và lão "đi đời" trong đau khổ và tủi nhục. Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng.
tham khảo nha bạn
Truyện ngắn "lão Hạc" là một trong những thành công của Nam Cao trong việc xây dựng những hình tượng người nông dân Việt Nam sống dưới ách thống trị nặng nề trong xã hội thực dân nửa phong kiến, những con người phải sống trong cuộc đời đầy đau khổ nhưng vẫn mang một vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Nếu là lão Hạc thì hình tượng nhân vật gây xúc động bởi tình phụ tử thiêng liêng và nhân cách cao thượng thì ông giáo cũng là điểm sang về tình thương người, về cách nhìn đầy cảm thông trân trọng đối với người nông dân nghèo đói đương thời.
Trước hết ta thấy nhân vật "tôi" trong tác phẩm chính là một người tri thức nghèo. Nghề giáo trong xã hội ấy thường bị thất nghiệp. mọi ước mơ, lí tưởng, nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ đành bỏ dở và phai nhạt dần. Kể cả những cuốn sách quý giá ông giáo cũng đành bán đi để chữa bệnh cho con. Ông giáo, do đó, rất cảm thông với nỗi đau xót của lão Hạc. Ông tâm sự như muốn nói với người bạn đồng cảnh ngộ: "lão Hạc ơi Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão quý con chó Vàng cảu lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi!"
Từ kinh nghiệm, từ nỗi đau của bản thân ông giáo dễ dàng thông cảm với lão Hạc. ông thấy được phẩm chất cao quý của lão Hạc và rất trân tọng lão Hạc. Ông đã nhận xét nếu không hiểu sau tâm hồn phẩm chất của họ, ta chỉ thấy họ ngu dốt, gàn dở, xấu xa! Ngược lại đã hiểu và yêu quý lão ông giáo ngầm giúp đỡ lão đến nỗi vợ của ông còn phàn nàn trách cứ. đó là thời buổi cái khổ và chết choc đang rình rập bất cứ ai! Hiểu nhau ở tinh thần thể hiện bằng hành động giúp đỡ cụ thể điều đó rõ là tình cảm sâu xa, nhân hậu.
Tuy nhiên, cả một xã hội đang bị cảnh chết đói đe dạo, có người còn giữ được đạo đức nhân cách có người phải trộm cắp để mà sống. Vì vậy, thấy lão hạc xin bả chó Binh Tư, ông giáo lầm tưởng lão Hạc cũng từ bỏ nhân cách, đói nghèo đến liều lĩnh rồi. Dù vậy ông giáo cũng suy nghĩ rất nhân hậu: lão Hạc lại nối gót Binh Tư làm nghề trộm chó để sống, lẽ nào một con người hiền lành chất phác ấy mà lại có hành động xấu xa đến thế? Vừa kính nể về nhân cách, vừa thương bì hoàn cảnh túng cùng, ông giáo cảm thấy buồn trước sự suy thoái đạo đức. đến lúc nghe về cái chết bi thảm của lão Hạc ông mới chợt nhận ra: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo nghĩa khác". Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn vì lão Hạc vẫn là cong người đạo đức, có nhân cách cao quý, lão vẫn xứng đáng với niềm tin cậy cảu ông, chưa mất đi nhân phẩm. ông giáo buồn vì con người mà ông đang yêu thương, quý trọng lại nghèo đến nỗi không có cái ăn để tồn tại trên cõi đời này. Cuộc đời con người lương thiện lạn bi thảm đến thế? Vậy chân lí "hiền lành" liệu còn tồn tại ?
Đối với lão Hạc còn gì quý hơn lời hứa thực hiện điều ông trăn trối: Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lồng mà nhắm mắt! lão đừng lo gì cho cái vườn của lão.....cái vườn mà lão nhất định không chịu bán đi một sào". Ta như nghe ông giáo đang thề nguyện trước vong linh người đã khuất, ta tin rằng ông sẽ làm tròn trách nhiệm lời hứa của lão Hạc.
Truyện ngắn "lão Hạc" đã cho ta thấy xã hội đương thơi có nhiều cảnh bi thương, dồn con người lương thiện vào đường cùng không giúp được, không cưu mang nổi nhau để cuối cùng phải tự kết liễu đời mình một cách thảm thương. Ý nghĩa tố cáo của truyện thật sâu sắc!
Tóm lại ông giáo là người tri thức, không may mắn trong xã hội đương thơi nhưng vẫn có tấm lòng nhân hậu cao quý, có cái nhìn sâu sắc để cảm thông chia sẻ và quý trọng một người chất phác thật thà như lão Hạc. Biết bao người có tấm lòng nhân hậu mà không giúp nhau vượt qua bi kịch của cuộc sống! Qua ông giáo ta hiểu cái nhìn cảm thông tin tưởng của Nam Cao đối với nhân cách đáng quý: dù có là tri thức hay nông dân họ vẫn là tri kỉ, họ có thể kí thác những điều hệ trọng, thiêng liêng nhất đời mình.
viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật mị nương
tra google đi cho nhanh
TL:
Năm ấy, ta vừa mới lớn, được vua cha rất thương yêu chiều chuộng. Vua cha thường nói với mẫu hậu rằng: “Con gái đầu lòng của ta thật xinh đẹp, hiền lành. Phải kén được một chàng trai có tài cao, chí lớn, ta mới gả nó đi lấy chồng”.
Rồi một hôm, vua cha cho người đi loan báo khắp nơi rằng nhà vua muôn kén rể quý. Nhiều chàng trai từ khắp nơi tìm đến, nhưng chưa có ai khiến vua cha vừa ý.
Bẵng đi một dạo, bỗng một hôm, không hẹn mà nên, có hai người đến cùng một lúc. Một người tự xưng là Sơn Tinh, làm chúa miền non cao. Một người tự xưng là Thủy Tinh, cai quản miền nước thẳm. Hỏi đến tài năng, hai người đều có tài lạ. Sơn Tinh có tài năng vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Còn Thủy Tinh cũng không kém. Chàng có tài gọi gió, gió đến; hô mưa, mua về; trong chớp mắt có thể khiến trời nổi dông bão, gây ra lụt lội.
Cả hai người đều muôn cưới ta làm vợ. Vua cha lúc bấy giờ rất băn khoăn. Cứ như ý ta nghĩ thì vua cha có vẻ nghiêng về phía Sơn Tinh hơn. Nhưng, trong hai người, nhà vua từ chối người nào, chọn người nào thì cũng không tiện. Cha bèn mời các vị Lạc hầu, Lạc tướng đến để bàn bạc.
Rồi người truyền với hai vị khách cầu hôn rằng cả hai chàng đều rất hợp ý vua cha. Có được những rể quý như hai chàng, thật là điều đại phúc, cũng là cho đất nước Vãn Lang này. Nhưng ngặt nỗi vua cha lại chỉ có một đứa con gái, không biết làm sao. Nhận lời người này tất sẽ phụ lòng người kia. Thật là khó xử.
Để chọn được một trong hai người mọt cách thuận tình hợp lí, vua cha đã đặt ra điều kiện rằng sáng sớm ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, vua cha sẽ cho người ấy đón ta về nhà. Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nẹp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Cả đem hôm đó ta không sao ngủ được. Cứ nghĩ đến lúc phải rời hoàng cung về với nhà chồng, xa rời vua cha và mẫu hậu, lòng ta cứ nghẹn ngào. Lại còn chưa biết sẽ về đâu: nơi núi cao hay vùng nước thẳm. Tất cả phải đợi đến sáng hôn sau mới rõ được.
Sáng hôm sau, khi chân trời vừa mới rạng, ta chưa kịp thức giấc, đã nghe lao xao tiếng người ngoài cổng thành xin vào đón dâu. Chính Sơn Tinh cùng với quân lính và người nhà đã đem đủ lễ vật đến trước. Vua cha mừng rỡ thâu nhận sính lễ rồi giục ta mau chóng cùng Sơn Tinh lên đường về núi Tản Viên. Ngước mắt nhìn hoàng cung lần cuối, ta vội vã lên đường. Thoáng chốc, bóng dáng tòa thành đã mất hút trong mây.
Thủy Tinh đến sau, biết chuyện Sơn Tinh đã đến trước và rước ta đi rồi, chàng vô cùng giận dữ, liền thét gọi quân lính hò reo đuổi theo. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão, dâng nước sông lên cuồn cuộn. Đoàn quân thủy quái từ dưới sông tiến lên rầm rập trên rừng, khí thế vô cùng khủng khiếp.
Từ trên núi cao, Sơn Tinh biết chuyện, chàng bình tĩnh khuyên ta hãy an lòng. Nói rồi chàng vẫy tay dựng núi thành hàng ngăn nước sông. Chàng lại hóa phép dời từng ngọn núi, dựng lên làm những bức thành cao ngất để cản dòng nước lũ. Thủy Tinh dâng nước cao lên chừng nào, chàng lại cho núi cao lên chừng ấy. còn giao cho tướng hổ dẫn quân tiêu diệt đoàn thủy quái đang bò lổm ngổm khắp mặt đất. Cuộc chiến kinh hoàng không sao tả nổi.
Hai bên cứ thế đánh nhau liên tục mấy tháng ròng rã. Quân Thủy Tinh càng đáng càng hăng. Sức của Thủy Tinh lúc đầu thì hung dữ, càng ngày xem ra càng suy yếu. Cuối cùng hắn đành chịu thua, phải rút quân về.
Tuy vậy, Thủy Tinh ôm hận trong lòng quyết không từ bỏ. Liên tiếp từ đó đến nay, năm nào hắn cũng cho quân lên đánh Sơn Tinh, gây cho đất Phong Châu ta cảnh lũ lụt mấy tháng liền, thật là đau khổ không sao kể siết. Sơn Tinh cùng nhân dân thành Phong Châu kiên cường chống lại quyết giữ lấy cuộc sống yên bình. Dù cố hết sức nhưng Thủy Tinh lúc nào cũng nhận lấy thất bại.
~HT~
em hãy viết một đoạn văn ngắn ( từ 12 đến 15 dòng ) nêu cảm nghĩ của em về nhân vật 'Tấm'
Tham khảo:Truyện kể về hai nhân vật chính là cô Tấm và Cám. Tấm hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng. Cám thì lười biếng, được cưng chiều. Vì bố mất sớm nên Tấm phải ở cùng với người dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám. Tấm luôn bị mẹ con Cám đối xử bất công và cực nhọc. Một lần Tấm và Cám đi bắt tép, ai bắt được nhiều tép hơn sẽ được thưởng. Cám lừa Tấm lên bờ rồi chút hết tép trong giỏ của Tấm vào giỏ mình. Trong giỏ của Tấm chỉ còn lại một con cá bống. Tấm khóc nức nở và được Bụt hiện lên giúp đỡ. Nhờ sự giúp đỡ của Bụt, Tấm có người bạn để tâm sự là cá bống, có quần áo mặc đi chơi hội, được bầy chim sẽ giúp đỡ. Đến ngày hội làng, khi đi xem hội Tấm lỡ đánh rơi một chiếc giày và được nhà vua nhặt được. Vua truyền lệnh: hễ ai ướm giày vừa chân thì vua sẽ lấy làm hoàng hậu. Tấm đi vừa chiếc giày và trở thành hoàng hậu. Thấy vậy, mẹ con Cám ghen tị. Một lần Tấm về giỗ cha, nàng trèo lên hái cau thì mẹ con Cám chặt cây cau và hại chết Tấm. Sau lần ấy, Cám vào cung tiến cung. Tấm nhiều lần hóa thân biến thành con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, và cuối cùng là trong quả thị để trở thành con gái của bà cụ. Nhờ miếng trầu têm mà vua nhận ra Tấm. Nàng trở lại làm hoàng hậu. Mẹ con Cám chết.
Viết một đoạn văn ngắn 8 đến 10 câu nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Dế Mèn
Em hãy viết một đoạn văn ngắn (10 đến 15 câu) nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Thánh Gióng
Tham khảo:
Trong truyền thuyết Thánh Gióng, Thánh Gióng là hình tượng tiêu biểu của người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Chàng được sinh ra từ một người mẹ nông dân nghèo, điều này chứng tỏ Gióng sinh ra từ nhân dân, do nhân dân nuôi dưỡng. Gióng đã chiến đấu bàng tất cả tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của nhân dân. Sức mạnh của Gióng không chỉ tượng trưng cho sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân, đó còn là sức mạnh của sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên, bằng cả vũ khí thô sơ (tre) và hiện đại (roi sắt). Từ truyền thống đánh giặc cứu nước, nhân dân ta đã thần thánh hoá những vị anh hung trở thành những nhân vật huyền thoại, tượng trưng cho lòng yêu nước, sức mạnh quật khởi. Bên cạnh giá trị biểu tượng, tác phẩm cũng có một số sự thật lịch sử. Thời kì lịch sử được phản ánh trong tác phẩm là thời đại Hùng Vương. Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp trồng lứa nước đã khá phát triển, người dân Văn Lang đã tạo nên cả một nền văn minh rực rỡ, đồng thời cũng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm phương Bắc để bảo vệ đất nước. Bên cạnh việc cấy trồng lúa nước, nhân dân thời bấy giờ đã có ý thức chế tạo vũ khí chống giặc từ chất liệu kim loại (bằng sắt). Truyền thuyết cũng phản ánh: trong công cuộc chống ngoại xâm, từ xa xưa, chúng ta đã có truyền thống huy động sức mạnh của cả cộng đồng, dùng tất cả các phương tiện để đánh giặc.
Qua câu chuyện Thánh Gióng, hình tượng Thánh Gióng hiện ra thật oai hùng. Thánh Gióng là một người dũng cảm , cường tráng và yêu nước .Với sức mạnh của mình, ông đã đánh bại kẻ thù, mang lại hòa bình cho dân tộc. Chi tiết ..... làm em cảm thấy ấn tượng. Vì .....( chọn chi tiết mà cô giáo bạn cho ghi chứ không mk ghi là cô trừ điểm).( ghi nội dung câu chuyện).Em hứa....
Chủ đề đánh giặc cứu nước, giành thắng lợi là chủ đề lớn, xuyên suốt trong dòng văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Trong đó, truyền thuyết Thánh Gióng là truyện dân gian thể hiện chủ đề này thật tiêu biểu và độc đáo. Truyện kể về ý thức và sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của dân tộc ta.
Hình tượng Thánh Gióng hiện lên với nhiều chi tiết nghệ thuật hay và để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Không những thế, truyện Thánh Gióng còn chứa đựng những chi tiết thật hoang đường, kỳ ảo. Ban đầu là mẹ của Thánh Gióng đi ra đồng, ướm thử chân mình vào một dấu chân rất to lớn, rồi sau đó về nhà bà mang thai, mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Có ai lại mang thai tới mười hai tháng bao giờ? Điều này cũng chính là dấu hiệu báo cho ta có thể biết trước sự lạ lùng về chú bé. Quả đúng như vậy, chú bé được sinh ra khôi ngô, tuấn tú nhưng lạ thay, lên ba tuổi mà vẫn không biết đi, đứng, nói, cười; đạt đâu thì nằm đó. Thật khác hẳn với những em bé bình thường. Chú bé này thật khác lạ khiến mọi người ai cũng cảm động và lo lắng cho chú. Nhưng khi có giặc Ân kéo đến xâm phạm bờ cõi Văn Lang, chú bé liền cất tiếng nói. Và tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc. Chú bé đã bật ra tiếng nói kịp thời, tiếng nói cất lên khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Tiếng rao của sứ giả ờ đây chính là lời hiệu triệu của Vua Hùng, là tiếng gọi của non sông đất nước khi Tổ Quốc lâm nguy. Chi tiết này làm em thật cảm động. Chú là người yêu quê hương đất nước tha thiết. Lòng yêu quê hương đất nước tha thiết đã giúp chú bé mới ba tuổi không nói, không cười lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt với ý chí quật cường có thể dời non, lấp biển. Thánh Gióng là một biểu tượng của muôn người gộp sức, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.
Chú bé Gióng đã có mặt kịp thời khi đất nước lâm nguy đã dẹp tan quân giặc. Ngựa phun ra lửa, roi sắt thần kì quật tan quân thù. Khi roi gãy thì nhổ tre đánh giặc. Thật sung sướng và tự hào biết bao khi Tổ Quốc ta có được một vị anh hùng như Thánh Gióng. Ta càng tự hào hơn khi Thánh Gióng đánh giặc xong không hề đợi vua ban thưởng mà một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Đây là một chi tiết hoang đường, kì ảo nhưng lại có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Sự ra đi kì lạ của Thánh Gióng rất phù hợp với ý nguyện nhân dân, nên nó có một sức sống trường tồn trong lòng nhân dân như một nét đẹp rực rỡ, trong sáng nhất của người anh hùng chống giặc. “Cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời” - thật là kì ảo, nhưng thật nhẹ nhàng, ung dung. Người con yêu nước ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh giặc cứu nước của mình, và đã ra đi một cách vô tư, thanh thản, không hề màng tới công danh địa vị cho riêng mình. Áo giáp sắt nhân dân làm cho để đánh giặc, khi đánh tan giặc rồi, trả lại cho dân để bay về trời. Điều đó cho em thấy ở hình tượng Thánh Gióng- trong con người của chàng chỉ có yêu nước và cứu nước - tất cả đều cao đẹp, trong sáng như gương, không một chút gợn nào. Phải chăng đó cũng chính là gương mặt của nhân dân ta được kết tinh trong người Thánh Gióng, ý chí phục vụ thật là vô tư , lớn lao và gương mẫu. Công lao to lớn ấy đã được nhà vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương, nhân dân muôn đời ghi nhớ. Thánh Gióng đánh giặc đâu phải là đơn phương độc mã. Thử hỏi rằng nếu không có cơm gạo... của dân làng, của nhà vua thì Thánh Gióng làm được những gì? Công lao của Thánh Gióng cũng có một phần của nhân dân lao động góp sức tạo lên. Thánh Gióng chính là sự tượng trưng cho sự lớn mạnh của đất nước ta, dân tộc ta.
Khép trang sách lại mà hình tượng Thánh Gióng vẫn đọng mãi trong tâm trí em - một hình tượng nghệ thuật dân gian tuyệt đẹp, tràn đầy tư tưởng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết thắng. Quả là không có hình tượng nào sánh kịp.
Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nghĩ của em về một nhân vật mà em đã học , đã đọc . Dàn ý hay nhất lớp 4