1.cho biết các câu sử dụng biện pháp tu từ gì?
a. cậu ấy người không phải dễ gần gũi.
b. Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng trời cho.
1.cho biết các câu sử dụng biện pháp tu từ gì?
a. cậu ấy người không phải dễ gần gũi.
b. Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng trời cho.
Câu 1: hãy phân tích cấu trúc ngữ pháp cho những câu văn sau, từ đó hãy phân loại câu chia theo cấu tạo cho từng câu được phân tích 1.Cái cặp này bị đứt quai. 2.Ngoài khơi, những cánh buồm đang lướt sóng trở về đất liền . 3.Nếu con người không có ý thức bảo vệ môi trường thì sự sống trên trái đất sẽ bị hủy hoại. Câu 2: Em hãy cho biết tác dụng của phép nói quá trong câu ca dao sau: Lỗ mũi mười tám gánh lông / Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho
Em hãy cho biết trong hai câu thơ sau tác giả đã sử dụng các biện pháp tu từ gì?Cho biết tác dụng của các biện pháp tu từ đó. Động lòng, bóng cây thầm nhắc nhủ "Bà má ơi! Ghé gánh nghỉ chân già!"
lỗ mũi mười tám gnh2 lông
chông yêu chồng bảo râu rồng trời cho
trên đầu nhưng trấu cùng cho
chồng thương chồng bảo hoa thơm rắc đầu
tìm biện pháp tu từ
Từ xưa, nhân dân ta,đã lấy ca dao – dân ca làm vũ khí sắc bén đấu tranh với giai cấp thống trị áp bức bóc lột và phê phán các thói hư tật xấu trong nội bộ của mình. Tiếng cười vang lên mọi nơi, mọi lúc, hấp dẫn già trẻ, gái trai, tạo nên một không khí vui vẻ làm vơi đi bớt nỗi mệt nhọc sau một ngày lao động vất vả. Trong ca dao, người phụ nữ vốn là đối tượng luôn được ưu ái nhưng trường hợp đặc biệt sau đây thì lại là đề tài đàm tiếu của công chúng:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đâu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Mục đích của bài ca dao hài hước này trước hết là để giải trí, nhưng đằng sau tiếng cười sảng khoái vẫn ngầm chứa một ý nghĩa châm biếm, chế giễu loại phụ nữ xấu người, xấu nết, rất khó được người lao động ở nông thôn chấp nhận.
Bài ca dao phác thảo chân dung của hai nhân vật: cô vợ và anh chồng, mỗi người một vẻ, vừa trái ngược lại vừa đồng điệu. Cặp vợ chồng kì lạ này sẽ dẫn dắt mọi người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.
Theo quan niệm dân gian thì người phụ nữ phải đẹp về hình dáng, làn da, gương mặt và đẹp cả về nết ăn nết ở. Người cọn gái phải biết chăm lo cho chồng con, gia đình và biết tự chăm sóc cho bàn thân mình. Nhưng ở bài ca dao này thì cô gái không được một nét nào. Trước hết, tác giả dân gian đặc tả cái lỗ mũi có một không hai của cô ta: Lỗ mũi mười tám gánh lông.
Tiếng cười vang lên khi hình ảnh phóng đại bất ngờ xuất hiện ở câu ca dao đầu, bởi vì trên đời này không thể có người phụ nữ nào như vậy. Người ta thường nói gánh cỏ, gánh rơm, gánh thóc, gánh lúa; còn ở đây, tác giả dí dỏm chơi chữ, dùng tử gánh lông kết hợp với số từ cường điệu mười tám để nhấn mạnh cái lỗ mũi kì dị của cô gái này. Quả là cô vợ có một cái mũi lạ lùng ngoài trí tưởng tượng. Ấy vậy mà có một người đàn ông hết lòng bênh vực cô ta, khẳng định đó là cái mũi quý giá, hiếm có trên đời: Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Chồng yêu thương, nâng đỡ, che chở cho vợ mình là lẽ đương nhiên ở đời, nhưng trong câu ca dao này, có phải do anh chồng quá yêu vợ hoặc sợ vợ đến mức mù quáng, mất hết tinh táo nên mới tâng bốc vợ mình một cách phi lí và quá đáng chăng ? Bởi vì râu rồng là một hình ảnh trang trọng, đẹp đẽ, không thể đem so sánh với những thứ tầm thường như… lông mũi được.
Cô vợ đã xấu xí về hình thức lại không nết na trong hành vi, nếp sống. Hai câu ca dao tiếp theo giễu cợt sự vô ý vô tứ của cô ta trong giấc ngủ và thái độ bênh vực đến mức buồn cười của anh chồng:
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Chúng ta thử tưởng tượng: giữa đêm khuya thanh vắng, cả gia đình nhà chồng đang chìm trong giấc ngủ, bỗng rộ lên những tiếng ngáy o o của cô vợ làm cho mọi người tỉnh dậy. Chắc chắn là ai cũng sẽ thấy khó chịu và anh chồng tất nhiên là xấu hổ. Nếu chỉ có hai vợ chồng, thì anh chồng cũng phải bực mình hoặc cười ra nước mắt. Thực tế cho thấy nhiều cặp vợ chồng chia tay nhau chi vì lý do vô ý của vợ hoặc chồng. Thế nhưng với anh chồng yêu vợ quá đỗi này thì chuyện đó không đáng kể. Tiếng ngáy ầm ĩ, vô tư của cô vợ đã được anh ta giải thích một cách xuê xoa và tếu táo là ngáy cho vui nhà. Anh chồng không góp ý, khuyên nhủ để vợ mình thay đổi tật xấu mà còn cố tình bao biện, khỏa lấp.
Cô vợ không chi bộc lộ tật xấu ở nhà mà còn có thói quen xấu khi ra ngoài xã hội:
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Xưa nay, đi chợ ăn quà bị coi là một thói xấu đáng chê trách. Bởi vì nó xa lạ với phẩm chất chịu thương chịu khó, nhường nhịn miếng ngon miếng lành cho chồng cho con của người phụ nữ. Cô vợ trong bài ca dao này chỉ biết hưởng thụ, thỏa mãn ham muốn vật chất riêng của mình. Hay ăn quà nghĩa là cô ta ăn một cách thường xuyên, đi chợ lần nào cũng ăn. Các tác giả dân gian chi cần điểm một thói quen Đi chợ thì hay ăn quà là đã khắc sâu được hình ảnh xấu của cô ta. Tuy thế, cô ta vẫn được chồng che chở, bênh vực bằng lí lẽ ngụy biện là về nhà đỡ cơm. “Nhất vợ nhì trời”, nhưng bênh vợ chằm chặp như anh chồng trong bài ca dao này thì đúng là có một không hai.
Cô vợ đoảng đến mức không chăm lo cho gia đình mà cũng không biết cách tự chăm sóc bản thân:
Trên đầu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Cô ta không hiểu rằng muốn giữ được hạnh phúc gia đình thì trước hết phải giữ gìn vẻ đẹp của mình, không nên sống buông thả, lôi thôi luộm thuộm, tự làm xấu đi hình ảnh bản thân và tỏ ra coi thường những người xung quanh. Cái răng, cái tóc là góc con người, thế mà cô ta để Trên đầu những rạ cùng rơm. Vì thế, cô ta trở thành lập dị. Duy chỉ có anh chồng mụ mị như bị ma ám, như bị bỏ bùa thì vẫn nắc nỏm khen lấy khen để là hoa thơm, rắc đầu.
Có thể là ông trời đã ban phát cho cặp vợ chồng kì lạ này một điểu gì đó khác thường khiến họ hòa hợp với nhau đến thế. Điệp ngữ Chồng yêu chồng bảo… lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài ca dao đã giải thích điểu mà dân gian thường hay nói tới là: Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…Hoặc: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông…
Chỉ có tám câu ca dao với thủ pháp trào lộng thông minh, dí dỏm, với những chi tiết hí họa đặc sắc kết hợp khéo léo với nghệ thuật cường điệu, ngoa dụ, tăng tiến, trùng điệp,… bài ca dao đã tạo ra tiếng cười vui tươi, sảng khoái. Thái độ của mọi người đối với cô vợ là thái độ châm biếm, phê phán nhưng không ghét bỏ.Còn đối với anh chồng “ lạ đời” kia thì chỉ cảnh tỉnh bằng nụ cười chân thành, độ lượng. Bài ca dao thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh của người bình dân, cho dù cuộc sống của họ còn nhiều lo toan, vất vả. Ông cha ta có câu: Thương cho roi cho vọt, Ghét cho ngọt cho bùi. Dù sao thì bài ca dao trên cũng là lời nhắc nhở chúng ta hãy nhận thức rõ ràng về cái xấu, cái tốt để vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ trong cuộc sống.
Bạn tham khảo :
Biện pháp tt được sử dụng :
-Nói quá :"lỗ ..lông "
-Điệp cấu trúc :"Chồng ..chồng bảo"
Từ xưa, nhân dân ta,đã lấy ca dao – dân ca làm vũ khí sắc bén đấu tranh với giai cấp thống trị áp bức bóc lột và phê phán các thói hư tật xấu trong nội bộ của mình. Tiếng cười vang lên mọi nơi, mọi lúc, hấp dẫn già trẻ, gái trai, tạo nên một không khí vui vẻ làm vơi đi bớt nỗi mệt nhọc sau một ngày lao động vất vả. Trong ca dao, người phụ nữ vốn là đối tượng luôn được ưu ái nhưng trường hợp đặc biệt sau đây thì lại là đề tài đàm tiếu của công chúng:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đâu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Mục đích của bài ca dao hài hước này trước hết là để giải trí, nhưng đằng sau tiếng cười sảng khoái vẫn ngầm chứa một ý nghĩa châm biếm, chế giễu loại phụ nữ xấu người, xấu nết, rất khó được người lao động ở nông thôn chấp nhận.
Bài ca dao phác thảo chân dung của hai nhân vật: cô vợ và anh chồng, mỗi người một vẻ, vừa trái ngược lại vừa đồng điệu. Cặp vợ chồng kì lạ này sẽ dẫn dắt mọi người đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.
Theo quan niệm dân gian thì người phụ nữ phải đẹp về hình dáng, làn da, gương mặt và đẹp cả về nết ăn nết ở. Người cọn gái phải biết chăm lo cho chồng con, gia đình và biết tự chăm sóc cho bàn thân mình. Nhưng ở bài ca dao này thì cô gái không được một nét nào. Trước hết, tác giả dân gian đặc tả cái lỗ mũi có một không hai của cô ta: Lỗ mũi mười tám gánh lông.
Tiếng cười vang lên khi hình ảnh phóng đại bất ngờ xuất hiện ở câu ca dao đầu, bởi vì trên đời này không thể có người phụ nữ nào như vậy. Người ta thường nói gánh cỏ, gánh rơm, gánh thóc, gánh lúa; còn ở đây, tác giả dí dỏm chơi chữ, dùng tử gánh lông kết hợp với số từ cường điệu mười tám để nhấn mạnh cái lỗ mũi kì dị của cô gái này. Quả là cô vợ có một cái mũi lạ lùng ngoài trí tưởng tượng. Ấy vậy mà có một người đàn ông hết lòng bênh vực cô ta, khẳng định đó là cái mũi quý giá, hiếm có trên đời: Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Chồng yêu thương, nâng đỡ, che chở cho vợ mình là lẽ đương nhiên ở đời, nhưng trong câu ca dao này, có phải do anh chồng quá yêu vợ hoặc sợ vợ đến mức mù quáng, mất hết tinh táo nên mới tâng bốc vợ mình một cách phi lí và quá đáng chăng ? Bởi vì râu rồng là một hình ảnh trang trọng, đẹp đẽ, không thể đem so sánh với những thứ tầm thường như… lông mũi được.
Cô vợ đã xấu xí về hình thức lại không nết na trong hành vi, nếp sống. Hai câu ca dao tiếp theo giễu cợt sự vô ý vô tứ của cô ta trong giấc ngủ và thái độ bênh vực đến mức buồn cười của anh chồng:
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Chúng ta thử tưởng tượng: giữa đêm khuya thanh vắng, cả gia đình nhà chồng đang chìm trong giấc ngủ, bỗng rộ lên những tiếng ngáy o o của cô vợ làm cho mọi người tỉnh dậy. Chắc chắn là ai cũng sẽ thấy khó chịu và anh chồng tất nhiên là xấu hổ. Nếu chỉ có hai vợ chồng, thì anh chồng cũng phải bực mình hoặc cười ra nước mắt. Thực tế cho thấy nhiều cặp vợ chồng chia tay nhau chi vì lý do vô ý của vợ hoặc chồng. Thế nhưng với anh chồng yêu vợ quá đỗi này thì chuyện đó không đáng kể. Tiếng ngáy ầm ĩ, vô tư của cô vợ đã được anh ta giải thích một cách xuê xoa và tếu táo là ngáy cho vui nhà. Anh chồng không góp ý, khuyên nhủ để vợ mình thay đổi tật xấu mà còn cố tình bao biện, khỏa lấp.
Cô vợ không chi bộc lộ tật xấu ở nhà mà còn có thói quen xấu khi ra ngoài xã hội:
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Xưa nay, đi chợ ăn quà bị coi là một thói xấu đáng chê trách. Bởi vì nó xa lạ với phẩm chất chịu thương chịu khó, nhường nhịn miếng ngon miếng lành cho chồng cho con của người phụ nữ. Cô vợ trong bài ca dao này chỉ biết hưởng thụ, thỏa mãn ham muốn vật chất riêng của mình. Hay ăn quà nghĩa là cô ta ăn một cách thường xuyên, đi chợ lần nào cũng ăn. Các tác giả dân gian chi cần điểm một thói quen Đi chợ thì hay ăn quà là đã khắc sâu được hình ảnh xấu của cô ta. Tuy thế, cô ta vẫn được chồng che chở, bênh vực bằng lí lẽ ngụy biện là về nhà đỡ cơm. “Nhất vợ nhì trời”, nhưng bênh vợ chằm chặp như anh chồng trong bài ca dao này thì đúng là có một không hai.
Cô vợ đoảng đến mức không chăm lo cho gia đình mà cũng không biết cách tự chăm sóc bản thân:
Trên đầu những rạ cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Cô ta không hiểu rằng muốn giữ được hạnh phúc gia đình thì trước hết phải giữ gìn vẻ đẹp của mình, không nên sống buông thả, lôi thôi luộm thuộm, tự làm xấu đi hình ảnh bản thân và tỏ ra coi thường những người xung quanh. Cái răng, cái tóc là góc con người, thế mà cô ta để Trên đầu những rạ cùng rơm. Vì thế, cô ta trở thành lập dị. Duy chỉ có anh chồng mụ mị như bị ma ám, như bị bỏ bùa thì vẫn nắc nỏm khen lấy khen để là hoa thơm, rắc đầu.
Có thể là ông trời đã ban phát cho cặp vợ chồng kì lạ này một điểu gì đó khác thường khiến họ hòa hợp với nhau đến thế. Điệp ngữ Chồng yêu chồng bảo… lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài ca dao đã giải thích điểu mà dân gian thường hay nói tới là: Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…Hoặc: Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông…
Chỉ có tám câu ca dao với thủ pháp trào lộng thông minh, dí dỏm, với những chi tiết hí họa đặc sắc kết hợp khéo léo với nghệ thuật cường điệu, ngoa dụ, tăng tiến, trùng điệp,… bài ca dao đã tạo ra tiếng cười vui tươi, sảng khoái. Thái độ của mọi người đối với cô vợ là thái độ châm biếm, phê phán nhưng không ghét bỏ.Còn đối với anh chồng “ lạ đời” kia thì chỉ cảnh tỉnh bằng nụ cười chân thành, độ lượng. Bài ca dao thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời và triết lí nhân sinh lành mạnh của người bình dân, cho dù cuộc sống của họ còn nhiều lo toan, vất vả. Ông cha ta có câu: Thương cho roi cho vọt, Ghét cho ngọt cho bùi. Dù sao thì bài ca dao trên cũng là lời nhắc nhở chúng ta hãy nhận thức rõ ràng về cái xấu, cái tốt để vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ trong cuộc sống.
chỉ ra một biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau và cho biết tác dụng trong hai câu thơ sauvaf cho biết tác dụng của biện pháp tu từ đó tôi yêu thường vẫn gọi / mạt trời xanh của tôi . các bạn giúp mik với ạ mình cảm ơn trước ạ
3. Câu thơ: Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
tác giả sử dụng biện pháp tu từ nào? Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó?
Cứu tui zớiiiiii
* dao kề cổ òi ( à ,cô giết người ko dao mà nhỉ ) *
Tham khảo theo đường link này nha : [CHUẨN NHẤT] Biện pháp tu từ trong bài thơ Tre Việt Nam
Câu 1: Cho biết các câu sau sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng.
a) "Mà bên nước tôi thì đang hửng lên cái nắng bốn giờ chiều, cái nắng đậm đà của mùa thu biên giới"
b) "Về thăm quê Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng"
c) "Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm"
Câu 2: Chỉ rõ từng điệp ngữ trong đoạn thơ, đoạn văn dưới đây và cho biết tác dụng của nó.
a) "Mồ hôi mà đổ xuống đồng,
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi hương.
Mồ hôi mà đổ xuống vườn
Dâu xanh là tốt vấn vương tơ tằm.
Mồ hôi mà đổ xuống đầm
Cá lội phía dưới, rau nằm phía trên." - (Thanh Trịnh)
b) "Thoắt cái, lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu.Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý." - (Nguyễn Phan Hách)
Câu 3: Chỉ rõ và nêu tác dụng của biện pháp ẩn dụ trong các câu sau:
a) "Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng." (Trần Đăng Khoa)
b) "Thuyền ơi thuyền nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền."
Câu 4: Chỉ rõ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong câu sau:
a) "Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân đầy đường." - (Trần Đăng Khoa)
b) "Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cây tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò trắng khiếng nắng qua sông" - (Trần Đăng Khoa)
Chỉ ra biện pháp tu từ (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ) được sử dụng trong các câu thơ sau bằng cách nêu rõ tên biện pháp tu từ và gạch chân từ ngữ sử dụng biện pháp tu từ đó.
a. Rừng cọ ơi rừng cọ Lá đẹp lá ngời ngời Tôi yêu thương vẫy gọi Mặt trời xanh của tôi! b. Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta c. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
| d. Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn e. Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gác Cho thắng lợi, nối theo nhau Đang hành quân đi lên phía trước
|
a. Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp lá ngời ngời
Tôi yêu thương vẫy gọi
Mặt trời xanh của tôi!
BPTT: hoán dụ
Tác dụng: tăng giá trị diễn đạt hình ảnh rừng cọ trong suy nghĩ của tác giả qua đó bày tỏ cảm xúc chân thật của người với rừng cọ, đồng thời gợi sự quan trọng của rừng cọ và làm câu thơ hay hơn.
b. Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
BPTT nhân hóa
Tác dụng: thể hiện rõ hơn tình bạn của trâu với người, trâu như một người bạn nhà nông không chỉ có giá trị kinh tế mà còn về tinh thần. Đồng thời, hình ảnh "chú trâu" trở nên sinh động gần gũi hơn với người đọc.
c. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
BPTT điệp ngữ và hoán dụ.
Tác dụng:
+ phép điệp ngữ giúp thêm tính liên kết chặt chẽ, mạch lạc, có vần nhịp giữa 2 câu thơ bằng hình ảnh "mặt trời" ở đầu câu.
+ phép hoán dụ gợi sự yêu thương của tình mẫu tử, ý chỉ hình ảnh "em" là nguồn sống, là niềm tin, niềm tự hào của mẹ để mẹ cố gắng làm việc.
d. Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
BPTT so sánh
Tác dụng: tăng giá trị biểu đạt cảm xúc của tác giả về vẻ đẹp của đất nước Việt Nam đồng thời qua đó làm câu thơ hay hơn, hình ảnh của quê hương trở nên sâu sắc và ý nghĩa hơn.
e. Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước
BPTT nhân hóa
Tác dụng: làm cho hình ảnh ngọn đèn sinh động hơn, gợi sự gần gũi với cách mạng qua sự dũng cảm chịu được cực khổ trong giá mưa. Qua đó thể hiện nên tinh thần yêu nước của tác giả, của người Việt ta đến cả ngọn đèn cũng thế.
Câu văn “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy” sử dụng biện pháp tu từ gì?
A. So sánh
B. Nhân hóa
C. Điệp từ
D. Hoán dụ
Câu văn trên sử dụng biện pháp nhân hóa :
Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy.
Đáp án cần chọn là: B