Kể lại truyện Đồng chí
Kể lại truyện Hoàng Lê nhất thống chí (vai của người lính tham gia trận)
Tham khảo:
Tôi là một người lính, mới được vua Quang Trung tuyển chọn ngày 29 tháng Chạp tại Nghệ An – quê hương tôi. Đại tướng Hám Hổ Hầu trực tiếp kén lính, cứ ba suất đinh (người trai tráng) thì lấy một người. Chẳng bao lâu, số lính mới tuyển đã lên đến hơn một vạn. Tôi được sung vào trung quân, trực tiếp dưới quyển chí huy của nhà vua.
Ngay sau khi tuyển lính, nhà vua đã mở một cuộc duyệt binh lớn. Trong lễ duyệt binh, vua đã dụ quân sĩ. Trong lời nói của Người, tôi nhớ nhất câu : “…Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông sương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…”. Hôm sau, ngày 30 tháng chạp, nhà vua hạ lệnh tiến quân. Khi đến núi Tam Điệp, hai vị tướng Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà chịu tội. Vua khen, chê, thưởng, phạt công minh các tướng lĩnh, khiến lòng tôi kính phục vô cùng. Cùng ngày hôm đó, vua mở tiệc khao quân và chia quân ra làm năm đạo. Nghe đâu, vua đã tiên đoán với các tướng : hẹn ngày mồng bảy năm mới vào thành Thăng Long lại mở tiệc ăn mừng. Chúng tôi nghe chuyện, lòn? cứ náo nức rộn ràng không sao tả xiết. Thế là, đúng ngày 30 thán? chạp cả năm đạo quân đều gióng trống lên đường ra Bắc…
Khi quân đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông; Thanh Quyết, gặp một toán quân Thanh do thám, nhà vua ra lệnh đuổi theo, bắt sống cho kì hết. Bởi thế, nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng năm Kỉ Dậu (1789), khi đoàn quân chúng tôi đến đồn Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín đồn, rồi bắc loa truyền gọi lúc bấy giờ trong đồn mới biết, chúng đều rụng rời sợ hãi. Quân ta bên ngoài lại nghi binh, luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Vì vậy, lính ở đồn Hà Hồi đều xin hàng, ta thu hết lương thực, khí giới. Đồn Hà Hồi bị quân ta hạ, không mất một mũi tên, hòn đạn nào.
Để hạ tiếp đồn Ngọc Hồi, vua chỉ huy chúng tôi truyền lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp đầy nước phủ kín. Tất cả là hai mươi bức. Tôi được chọn trong số lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, dàn trận thành chữ “nhất”. Vua Quang Trung cưỡi voi trực tiếp đốc thúc. Mờ sáng . mồng năm quân ta đã tiến sát, bao vây đồn Ngọc Hồi. Khi gươm giáo hai bên chạm nhau, thì tất cả quăng ván xuống đất, ai nấy đều cầm dao ngắn, phối hợp với những người lính cầm binh khí, xông lên mà đánh. Quân Thanh tán loạn, xéo lên nhau mà chạy. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống lại tự thắt cổ chết. Quân của Quang Trung thừa thế xông lên. Quân Thanh đại bại. Vua Quang Trung còn lùa cho voi chiến xuống Đầm Mực, khiến cho kẻ địch trốn dưới đầm chết như ngả rạ.
Giữa trưa mồng năm tháng giêng, vua Quang Trung chỉ huy đội quân tiến vào Thăng Long trong tiếng hô tung trời của người dân kinh thành. Là một người lính trong đội quân chiến thắng, tôi tự hào và vui sướng vô cùng. Thế là vua Quang Trung đã thực hiện lời tiên đoán trước hai ngày…
Nhìn nhà vua cưỡi trên lưng voi chiến, dẫn đầu đoàn quân tiến vào Thăng Long, áo long bào của Người xạm đen khói súng… tôi xúc động, giàn giụa nước mắt, kính phục và tự hào vô cùng về đức vua Quang Trung. Thế là từ nay, trăm họ lại được hưởng cuộc sống yên vui, thái bình. Là một người lính trong đoàn quân của vua Quang Trung, tôi thực sự hạnh phúc, thực sự sướng vui.
em hãy đóng vai người lính chuyển bài thơ ❝ Đồng Chí ❞ của chính Hữu Thành một câu truyện kể
Trải qua bao nhiêu năm tháng khổ đau, vất vả, cuối cùng chiến tranh đã đi qua. Hôm nay, ngồi trong căn nhà nhỏ, trong cái sự bình yên của đất nước, tôi đã có thể ngước nhìn lên ánh trăng sáng rực giữa bầu trời đêm. Ánh trăng gợi nhớ cho tôi về những kỉ niệm ngày còn cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến khu Việt Bắc. Đó là những đêm trăng dài cùng người đồng chí thân thương trải qua mà tôi vẫn nhớ mãi đến tận bây giờ.
Anh và tôi, gặp nhau trong chiến khu. Cả hai chúng tôi lúc ấy còn là những người trẻ, vô tư và tràn đầy nhiệt huyết. Quê hương anh “nước mặn đồng chua”, làng tôi nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Chúng tôi đều có xuất thân từ những vùng đất khó khăn, cảnh ngộ nghèo khó như nhau cả. Mang theo vẻ hồn nhiên chân thật của người lao động, anh và tôi đã sớm thân quen với nhau.
Chúng tôi vốn dĩ là hai con người hoàn toàn xa lạ, bằng một cách nào đó đã gặp nhau và trở nên thân thiết. Có lẽ tình cảm giữa tôi với anh ngày một nảy nở qua những lần cùng làm chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau lúc chiến đấu. “Súng bên súng, đầu kề sát đầu” cùng ra vào nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Lại nhớ những đêm cùng đắp chung chăn dưới nền trời lạnh cóng. Đó là mối tình tri kỉ giữa anh và tôi-tình đồng chí giản dị mà thanh cao.
Anh và tôi là hai người có cùng chung chí hướng, là hai con người rời khỏi quê hương để tham gia chiến đấu. Chúng tôi dù có xuất thân khác nhau nhưng có lẽ cùng một giấc mơ-giấc mơ về ngày đất nước độc lập. Những đêm cạnh nhau, anh kể tôi nghe chuyện về quê hương anh. Ruộng nương anh gửi cả cho bạn thân mình cày hộ, còn căn nhà đành phải bỏ mặc cho gió to tàn phá. Anh lại kể, kể những câu chuyện riêng tư, anh chia sẻ cho tôi mọi nỗi lòng của mình, những suy nghĩ thầm kín ấy được anh nói ra một cách chân thật và đầy đủ. Mỗi ngày trôi đi, tôi lại càng hiểu về anh nhiều hơn, mối quan hệ của chúng tôi vì thế ngày một thắm thiết.
Chúng tôi cùng nhau trải qua bao gian khó của chiến tranh.Lúc ấy ở rừng có đại dịch sốt rét. Anh em chiến hữu của tôi chết rất nhiều, bởi vì lúc ấy vẫn chưa có bất cứ loại thuốc hiệu quả nào để chữa trị cả. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, rét run cả người, toàn thân thể ướt ngập mồ hôi. Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá. Trải qua đại dịch như vậy nhưng chúng tôi luôn bên nhau, tương trợ cho nhau vượt qua khó khăn. Mệt mỏi là vậy nhưng miệng vẫn cười?, lạnh cóng là thế nhưng vẫn luôn cười, phần vì không thể để anh lo lắng, mặt khác, nụ cười là động lực giúp tôi cố gắng từng ngày. Anh nắm tay tôi thật chặt, động viên tôi, tiếp thêm sức mạnh vượt qua bệnh tật.
Rồi khỏe bệnh, anh và tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ. Những đêm rừng hoang sương muối, anh và tôi đứng canh gác cạnh bên nhau “chờ” giặc tới. Có lẽ tình đồng chí của chúng tôi đã sưởi ấm lòng giữa cảnh rừng hoang lạnh giá. Trong cảnh phục kích giặc giữa rừng, chúng tôi còn một người bạn nữa, đó là vầng trăng. Súng và trăng tuy gần mà xa, nhưng lại bổ sung và hài hòa vào nhau, giống như tình đồng chí của tôi và anh. Trong cái buốt giá luồn vào da thịt, đầu súng của người chiến sĩ và vầng trăng đứng cạnh bên nhau, đầu súng có trách nhiệm bảo vệ vầng trăng hòa bình.
Đất nước bây giờ đã độc lập, bình yên. Tôi bây giờ đã có thể sống một cách thoải mái không lo sợ chiến tranh. Tuy nhiên, đôi lúc tôi lại nhớ về khoảng thời gian còn chiến đấu, nhớ về anh-người bạn tri kỉ của mình. Tất cả những gian khổ của đời lính tôi đã có thể vượt qua được, nhờ vào sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội. Đó là khoảng thời gian mà tôi sẽ luôn nhớ mãi.
Hãy kể lại tình đồng chí, đồng đội của những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
* Gợi ý dàn bài:
* Mở bài:
Giới thiệu hoàn cảnh tiếp xúc bài thơ “Đồng chí” và tình đồng chí đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp nói chung, trong bài thơ nói riêng.
* Thân bài:
- Kể về tình đồng chí đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính trong bài thơ:
+ Những người lính trong bài thơ họ đều xuất thân từ nông dân, từ những vùng quê nghèo.
+ Họ cùng chung mục đích, lý tưởng, chung nhiệm vụ.
+ Họ cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
+ Họ cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính.
+ Tình cảm gắn bó sâu nặng giữa những người lính.
+ Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang mùa đông, sương muối gió rét.
* Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng cụ thể là hình ảnh anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Suy nghĩ của bản thân về những người lính cách mạng...
: Đóng vai người lính trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, kể lại tình đồng chí, đồng đội.
tham khảo
Chiến tranh đã rời xa, đất nước đã hòa bình được hai năm. Thế nhưng trong tâm trí tôi vẫn in đậm những năm tháng kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng đó. Biết bao kỉ niệm tràn về nhưng có lẽ nhớ nhất là những đồng chí đã cùng kề vai sát cánh bên tôi.
Năm 1945, chiến tranh nổ ra. Khắp nơi tràn đầy khói lửa chiến tranh. Nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, tôi cùng những thanh niên trong làng hăng hái đăng kí tham gia kháng chiến. Từ một người nông dân chỉ quen cầm cuốc cầm cày, tôi rời quê hương đến với chiến trường khốc liệt, cầm trên tay cây súng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người thân yêu, bảo vệ quê hương cùng những hạnh phúc giản dị nơi đây. Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong đơn vị hầu như là những gương mặt xa lạ từ bốn phương trời hợp lại. Thế nhưng bởi vì cùng là nông dân từ những miền quê nghèo đến, cùng chung hoàn cảnh xuất thân thế nên rất nhanh tôi và mọi người đã làm quen được với nhau. Đặc biệt, tôi rất thân với anh Dũng. Quê anh là ở một vùng chiêm trũng ven biển, đất chua rất khó trồng trọt. Còn làng tôi cũng là miền đất trung du đất cày lên sỏi đá, quanh năm khô cằn. Rất nhanh chúng tôi đã trò chuyện như quen thân từ lâu.
Chúng tôi đóng quân ở chiến khu Tây Bắc. Thời chiến tranh loạn lạc, hoàn cảnh thiếu thốn đủ thứ. Tôi vẫn nhớ những đêm ở đây với cái rét thấu xương, tôi và anh cùng chung nhau cái chăn mỏng, nằm sát bên nhau tâm sự. Tôi và anh chia sẻ với nhau nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thân. Anh kể về căn nhà tranh tồi tàn bây giờ để không trải qua mưa gió, về mảnh ruộng nhỏ ra đi phải nhờ bạn thân trông coi hộ, về hình ảnh người thân trong phút chia li. Thế nhưng tất cả đều không ngăn được quyết tâm ra đi của anh. Chúng tôi đều chung một lí tưởng, một mục tiêu chung, mặc cho nỗi nhớ quê nhà vẫn vững tay súng bảo vệ quê hương. Những câu chuyện nhỏ như thế, những tâm sự từ đáy lòng chia sẻ với nhau làm chúng tôi càng thêm gắn bó, trở thành tri kỷ của nhau. Và rồi dần dần phát triển thành một tình cảm thiêng liêng hơn mà bây giờ tôi càng trân trọng: tình đồng chí.
Chiến tranh gian khổ thiếu thốn đã để lại cho tôi nhiều kỉ niệm đáng quý. Tại vùng núi lạnh lẽo ấy, ám ảnh nhất là những cơn sốt rét rừng. Cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi vẫn còn in sâu vào trong tâm trí tôi bây giờ, chỉ nghĩ lại đã thấy rùng mình. Khi ấy, chiến khu thiếu thốn thuốc men, chúng tôi phải tự mình chống chọi với cơn sốt rét đó. Chính những giây phút thiếu thốn đó mà chúng tôi càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Rồi cả những ngày đầu vô cùng khó khăn phải chờ sự viện trợ từ quốc tế, chúng tôi thiếu thốn đủ thứ. Cái áo thì rách vai, quần thì vá chằng chịt, thậm chí trong thời tiết lạnh lẽo như thế chúng tôi còn phải đi chân trần. Nhưng khó khăn như thế chúng tôi cũng không nản lòng. Nụ cười trong giá lạnh, cái nắm tay truyền hơi ấm là động lực tiếp thêm niềm tin, sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua tất cả.
Đặc biệt tôi nhớ nhất những lúc kề vai sát cánh cùng nhau. Những hôm phục kích địch, chờ đợi trong đêm tối, trong rừng hoang đọng lại cả sương muối, chúng tôi đứng bên nhau dưới ánh trăng. Ngắm nhìn ánh trăng, cùng chờ đợi giặc tới. Đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần, có lúc như treo trên đầu ngọn súng. Trăng khi ấy chính là minh chứng cho tình đồng chí keo sơn của chúng tôi.
Những ngày tháng kháng chiến thật khó khăn, nguy hiểm nhưng thật may mắn vì bên tôi luôn có những đồng chí đồng đội cùng kề vai sát cánh chiến đấu. Chính tình đồng chí keo sơn gắn bó đã truyền cho tôi sức mạnh tiếp tục chiến đấu, góp một phần sức lực tạo nên chiến thắng cho dân tộc.
Kể lại chuyện Đồng chí
Tham khảo
Sau Chiến dịch mùa thu năm 1945, thực dân Pháp lại nổ súng tấn công tái xâm lược nước ta. Trước hiện thực đất nước gian khó, tôi cùng một số người bạn của mình nơi vùng quê cùng nuôi chí lớn hăm hở tham gia góp sức mình vào công cuộc bảo vệ đất nước. Bằng một lòng yêu nước nồng nàn, tôi quyết tâm trở thành một người lính nguyện hi sinh bản thân vì nền độc lập của nước nhà.
Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc vào năm 1947 cùng với nhiều những quân đoàn khác. Tôi có dịp được tiếp xúc và trò chuyện với nhiều người lính cùng tham gia vào chiến dịch. Là những người xa lạ, chúng tôi có cơ hội được gặp mặt nhau cũng là vì lời kêu gọi của tổ quốc. Nói chuyện với nhau, tôi mới biết rằng giữa những người lính chúng tôi có nhiều điểm chung: đều là những người nông dân chân chất làm ăn, tay chưa quen cầm súng. Nếu như tôi đến từ vùng trung du đất đai khô cằn sỏi đá, bạc màu mưa nắng thì anh lại xuất thân từ vùng đồng chiêm trũng ven biển, đất đai nhiễm phèn với nỗi ám ảnh ngàn đời chiêm khê mùa thối. Tuy đến từ những vùng miền khác nhau nhưng chúng tôi đều thấm thía cái khổ, cái khắc nghiệt của đời làm nông dân. Là những người anh em sẽ cùng kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu vì đất nước, chúng tôi đã nhanh chóng trở thành những người tri kỉ, gắn bó bên nhau vào sinh ra tử. Có người đồng chí chia sẻ với tôi rằng tham gia vào cuộc chiến này anh vừa vui vừa buồn. Vui vì có thể đóng góp sức mình cho công cuộc giải phóng chung của cả dân tộc nhưng buồn vì còn vợ con mong ngóng nơi quê nhà, ruộng nương thì vứt đấy đành gửi nhờ bạn thân trông coi, vậy là cả một gia tài cả đời làm lụng vất vả giờ đây không biết làm thế nào. Thế nhưng anh bảo, anh vui nhiều hơn là buồn bởi tham gia vào cuộc chiến là anh tự nguyện, chiến đấu và hi sinh cho tổ quốc là nguyện vọng cả đời của anh cốt có thể một phần góp sức đem lại hòa bình, ấm no cho nhân dân. Nghe anh nói thế, tôi nghẹn ngào mà xúc động lại như được tiếp thêm sức mạnh trong suốt cuộc hành quân vất vả.
Tây Bắc vốn là chốn rừng thiêng nước độc. Nhiều người đã phải bỏ mạng không phải vì hi sinh trên chiến trường mà vì cơn sốt rét tai ác do không có thuốc chữa trị. Thậm chí sau này, khi đã bước ra khỏi cuộc chiến tranh gian lao, từng cơn sốt rét rừng vẫn còn ám ảnh trong tâm trí tôi. Phải là người trực tiếp trải qua mới thấy nó đáng sợ đến như thế nào, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi, bên trong thì lạnh buốt. Chúng tôi chỉ là những người lính nghèo phải tự xoay sở giữa không gian núi rừng hoang sơ giá lạnh. Thiếu thốn quân trang, quân phục, chân thì đi đất nhưng trên tất cả, chúng tôi, những người lính vẫn có nhau, luôn đồng hành và thấu hiểu cho nhau. Chính bởi vậy mà chúng tôi luôn lạc quan, miệng nở nụ cười mà không ngừng tiến lên phía trước, nắm lấy tay nhau cất bước tiến lên trong cuộc hành quân đầy rẫy những gian khổ, khắc nghiệt.
Khó khăn, gian nan là vậy, thế nhưng đời lính chúng tôi vẫn có được những giây phút hết sức lãng mạn giữa không gian núi rừng hoang vắng. Đêm xuống, sương muối dày đặc phủ kín cánh rừng hoang vu. Cái lạnh tê tái của mùa đông núi rừng như cứa vào da vào thịt chúng tôi. Thế nhưng, đứng canh gác điều làm tôi chú ý hơn cả là vầng trăng tròn vành vạnh ở trên cao. Trăng như người bạn đồng hành của những người lính trong suốt những mùa chiến dịch đầy gian truân, vất vả. Ánh trăng trên tỏa ánh sáng xuống mặt đất như thức cùng những người lính chúng tôi trong đêm. Có được những giây phút thơ mộng mà lãng mạn như thế này, cùng nhau tôi lại thấy chúng tôi được gắn kết với nhau gần hơn chút nữa. Có lẽ chính tình đồng chí đồng đội góp phần biến giây phút này trở nên đẹp đẽ và yên bình hơn bao giờ hết.
Tham gia vào chiến dịch nào có ai biết được sống chết lúc nào, nhưng vượt lên trên tất cả những nỗi sợ tầm thường ấy, tôi luôn sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tổ quốc bởi có lẽ tôi luôn biết rằng tôi không đơn độc một mình mà sẽ luôn có những người đồng chí, đồng đội tri kỉ trung thành cùng tôi vào sinh ra tử để có thể đi qua mọi gian khó, chiến đấu đến cùng vì một lí tưởng cao cả của dân tộc sau này.
Tham khảo
Chưa kịp vui mừng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thì năm 1946, thực dân Pháp đã nổ súng tái xâm lược nước ta. Thực hiện lệnh tổng động viên của Chính phủ kháng chiến, nhân dân cả nước hăng hái tham gia chiến đấu, quyết không sống chung với kẻ thù. Với tinh thần nồng nàn yêu nước, căm ghét quân thù tột độ, tôi cũng hăm hở tòng quân. Sau khi nhận lệnh ở cơ sở, tôi được điều về Trung đoàn thủ đô, thuộc sư đoàn 308. Đây là một đơn vị có bề dày lịch sử hào hùng. Nhiệm vụ của trung đoàn là bảo vệ thủ đô, bảo vệ chính phủ và giúp bà con di tản về khu kháng chiến.
Là người nông dân, chỉ biết cày ruộng, làm vườn, chưa quen tay súng nhưng tôi không quản ngại gian nan chinh chiến nơi biên ải. Chí làm trai trong cơn nguy biến phải vì nợ nước thù nhà mà anh dũng, can trường, tiếp nối truyền thống cha ông, viết tiếp những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng. Dù chưa được luyện tập nhưng tôi rất tự tin. Cuộc chiến đấu sẽ dạy tôi làm điều đó. Lòng yêu nước vô hạn động viên tôi giữ chắc tay súng. Lòng yêu nước sẽ giúp tôi vững tâm trong cuộc chiến với kẻ thù hung bạo.
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Cùng tham gia chiến dịch còn có các đơn vị khác. Chúng tôi được phân công nhiệm vụ chiến đấu và ngăn chặn các cánh quân của địch tiến công lên khu căn cứ. Để hợp tác tác chiến hiệu quả, chúng tôi sáp nhập nhiều đơn vị với nhau, cùng hỗ trợ nhau trong nhiệm vụ và cuộc sống. Ban ngày, chúng tôi vừa tổ chức hành quân truy kích quân địch. Ban đêm, đơn vị sẽ nghỉ ngơi lấy sức. Việc quân nơi rừng núi lúc nào cũng nghiêm ngặt. Tuy kẻ thù còn ở xa nhưng lúc nào chúng tôi cũng nâng cao cảnh giác, đề phòng cao.
Những người lính từ những quê hương xa lạ, cùng yêu nước, căm thù giặc đã tề tựu về đây trong một đơn vị. Thân với tôi có một chiến sĩ quê ở tận miền duyên hải. Quê hương anh nước mặn đồng chua, quanh năm gian khó. Anh mới gia nhập đơn vị sau tôi, trong đợt tuyển quân vừa rồi. Nước da ngăm đen, bàn tay chai sần vì chài lưới, anh mang cả cái chất đồng quê đến chiến trường. Tôi đã vốn không biết gì về chiến trường, anh còn “ngây thơ” hơn cả tôi nữa. Đôi trưởng tập anh sử dụng súng AK và lựu đạn mà đến hơn tháng anh mới làm được. Đội trưởng phân công tôi phải phụ trách hướng dẫn anh nhiều hơn.
“Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” từ những miền quê xa xôi, chúng tôi đã gặp nhau nơi này. Chính tình yêu nước và tinh thần chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước đã gắn kết chúng tôi lại với nhau.
Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khổ. Thời gian đầu tổ chức kháng chiến, ta chưa có quân trang, quân dụng đầy đủ. Vũ khí cũng hết sức thô sơ. Lương thực, thuốc men và các nhu yếu phẩm khác lại càng thiếu thốn. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh. Đầu không có mũ, chân không có giày. Mỗi lần dẫm bàn chân trần trên lá khô tôi không khỏi rùng mình. Rừng Trường Sơn ma thiêng nước độc, thú dữ đã nhiều, rắn rết cũng vô kể. Hôm qua, một đồng chí đã dẫm phải con rắn hổ mang, bị cắn vào chân. Cái chân sưng vù lên khủng khiếp. Đơn vị vội tìm thầy thuốc trong làng để chữa trị. Tạm thời, đồng chí ấy phải ở lại cho đến khi vết thương lành hẳn.
Việc ăn uống cũng hết sức kham khổ vì đơn vị đang trên đường truy kích kẻ thù. Các chiến sĩ quân nhu chăm lo điều này cho chúng tôi dù đã cố gắng hết sức nhưng cũng không thể làm gì được trong tình thế này. Hiểu thế, nên chúng tôi không ai than vãn hay kêu ca điều gì. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, không chiếu. Cái lạnh rừng núi căm căm cắt vào da thịt chúng tôi. Để giữ ấm chúng tôi nằm sát cạnh nhau. Hơi ấm nhiều người lan tỏa khiến tôi càng mến yêu, càng khâm phục tinh thần hy sinh vì nước của các anh.
Sợ nhất là bệnh sốt rét rừng. Kẻ thù chúng tôi có thể chiến thắng, gian khổ chúng tôi có thể vượt qua nhưng những cơn sốt rét rừng tàn bạo cứ âm thầm bào mòn cơ thể chúng tôi. Đó là một căn bệnh khủng khiếp, là khó khăn lớn nhất mà chúng tôi luôn đối mặt. Đó là một kẻ thù vô hình đáng sợ. Tôi cũng đã từng mắc phải căn bệnh ấy. Cơn sốt làm tôi run rẩy khắp người ê buốt. Mồ hôi cứ tuôn ra như tắm, ướt cả mấy lớp áo. Anh bạn ngồi lau cho tôi hết khăn này đến khăn khác, đôi mắt lo lắng như muôn khóc. Tôi mỉm cười động viên, anh cũng gượng cười theo.
Tưởng chừng mình sẽ ra đi như bao đồng chí khác. Nhưng thật may mắn, tôi đã vượt qua. Tôi vẫn sống nhờ sự chăm sóc tận tình của người đồng đội. Lúc mê man bất tỉnh, đồng đội luôn ở cạnh tôi. Họ lo lắng, chăm sóc tôi từng chút một như chăm sóc cho một người thân. Họ dành tất cả thuốc men cho tôi. Khi vượt qua cơn nguy kịch, sức khỏe còn yếu, anh bạn tôi còn đi tìm bồi dưỡng cho tôi bằng món cháo thịt hoẵng thơm lừng mà anh vừa săn được.
Thật không thể diễn tả hết sự gắn bó, keo sơn thắm thiết tình đồng chí, đồng đội của chúng tôi. Chính nhờ sức mạnh ấy đã giúp chúng tôi vượt qua biết bao khó khăn gian khổ. Chính tình đồng đội thiêng liêng ấy đã giúp chúng tôi giữ vững tinh thần chiến đấu, bám sát nhiệm vụ. Tình yêu thương, sự đồng cảm, cả lòng mến phục khiến chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, cùng vào sinh ra tử bao trận chiến. Tình đồng đội sâu đậm kết tinh trong tình yêu nước thiêng liêng, là nguồn sức mạnh vĩnh hằng xuyên suốt trong trái tim người lính.
Những đêm cùng nhau canh gác, chúng tôi kể chuyện cho nhau nghe cho bớt đơn điệu. Anh bạn tôi kể lại ngày ra đi kháng chiến. Tuổi trẻ chưa bao giờ rời làng quê sông nước. Giờ xa cách muôn trùng thấy nhớ vô cùng. Ngày ra đi đất trời đẫm lệ. Nhìn vợ dại con thơ, mẹ già sức yếu anh không nỡ đành lòng. Nhưng tổ quốc đang cần. Tổ quốc đang lâm nguy. Kháng chiến cần anh. Dân tộc đang cần anh. Gửi lại ruộng vườn nhờ bạn thân trong nom, cày xới, anh gạt nước mắt lên đường. Đêm ấy mưa rơi tầm tã. Ngồi trong xe mà những giọt nước mắt cứ ròng ròng chảy. Ôm chặt tay súng, anh hứa khi giặc giã đầu hàng, anh sẽ trở về.
Tôi cũng giống như anh, cũng vừa rời quê hương biết bao yêu mến. Chợt nhớ về giếng nước gốc đa, mái ngói, sân đình mà ngùi ngùi. Nhớ người vợ trẻ từng đêm chờ đợi bên ngọn đèn khuya, đôi mắt mỏi mòn ngóng trông. Cha tôi qua đời từ lâu. Mẹ tôi cũng cao tuổi lắm rồi. Cái tuổi gần đất xa trời chắc gì đã đợi đến ngày tôi chiến thắng trở về.
Tôi lặng im, nhìn về phía xa xăm. Trên đỉnh núi, vầng trăng khuya cũng im lặng. Vầng trăng nghiêng nghiêng như treo trên đầu súng. Vâng trăng trầm mặc nghĩ ngợi, đồng cảm cùng con người. Ôi, cũng vầng trăng ấy đã sáng trên những đồng quê, trên những ruộng lúa, soi bóng trên dòng sông xanh. Cả tuổi thơ tôi ngập bóng trăng vàng. Vầng trăng thủy chung, son sắt ấy giờ lại cùng chúng tôi hành quân và chiến đấu. Trăng mãi mãi nghĩa tình với con người như chúng tôi mãi mãi kiên trung với quê hương đất nước.
Những đêm trăng rừng đằng đẵng. Những đêm trăng rừng rét buốt. Ẩn sau bóng tối là biết bao điều hiểm nguy, bất trắc. Nhưng bên cạnh tôi luôn có các anh. Bên cạnh tôi luôn có những người đồng đội đồng cam cộng khổ, thủy chung son sắt. Tôi tự hào khi có mặt ở đây. Tôi tự hào khi tham gia cuộc chiến đấu này. Tôi tự hào khi đứng cạnh các anh trong trận chiến đấu với kẻ thù. Nhìn vầng trăng chênh chếch như treo trên đầu súng của người bạn, tôi tin tưởng ở ngày mai chiến thắng. Vầng trăng ấy lại sáng soi trên khắp đồng ruộng hòa bình của quê hương, đất nước.
Cuộc chiến nào chẳng có mất mất hy sinh. Nhiều đồng chí của tôi đã ngã xuống. Họ không chết. Họ hóa thân vào với đất nước, để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng. Họ là những người anh hùng của thế kỉ. Tên tuổi của họ mãi mãi sẽ được tổ quốc vinh danh. Nghĩ về điều thiêng liêng đó, tôi giữ chặt tay súng, mắt đăm đăm dõi bóng quân thù.
Kể lại câu chuyện trong bài thơ Đồng Chí bằng ngôi kể thứ 3
Đóng vai người lính kể lại nội dung bài thơ Đồng Chí
Tham khảo:
Chiến thắng 1945 mới kết thúc chưa được bao lâu, tôi - người nông dân ở vùng quê nghèo khó còn chưa kịp tận hưởng niềm vui độc lập thì thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược trở lại. Theo lệnh tổng động viên của chính phủ, tôi để lại quê hương mà lên đường kháng chiến, mỗi người chúng tôi đề quyết tâm không để đất nước mình rơi vào tay của thực dân pháp một lần nào nữa.
Dù trước chỉ quen cầm quốc, cầm xẻng, lo việc đồng áng và vườn tược, nay tuy cầm suy có chút không quen nhưng tôi tin với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm của mình thì không gì là không thể. Chúng tôi hành quân khắp các nẻo đường trận mạc, chúng tôi không sợ đêm tối vì có trăng soi đường bước đi. Tôi và những người đồng đội ở đây hơn ai hết là những người mong muốn đất nước được độc lập tự do, bởi vậy mà cho dù khó khăn gian lao đến đâu cũng giành cho bằng được.
1947, chúng tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều quân đoàn khác, vốn là không quen nhau đấy mà nay đã trở thành những người đồng chí, anh em một nhà, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, đắng cay. Thứ gắn kết chúng tôi ở đây chính là tinh thần yêu nước có trong mỗi con người, chúng tôi trở thành tri kỉ không biết tự bao giờ.
Vẫn nhớ khi đó chúng tôi sinh hoạt thiếu thốn, đến quân trang, quân dụng còn chẳng đủ để dùng, hai người phải chia nhau một tấm chăn đơn. Rừng Trường Sơn nguy hiểm lắm, ma thiêng nước độc, có lần cả đơn vị tôi bị bệnh sốt rét rừng mà vàng da, rụng tóc, cả người xanh như tàu lá chuối, nhưng thật hay là chúng tôi chưa bao giờ ngừng tiếng cười. Mùa đông đến, cái rét như cắm vào da thịt chúng tôi, người thì áo rách, người thì quần đầy mảnh, có người thì chân không giày,... Chúng tôi cứ thế mà dựa vào nhau, truyền cho nhau hơi ấm, nắm tay nhau tiếp thêm sức mạnh chiến đấu và vượt qua bệnh tật. Có đêm tôi và một người đồng chí tâm sự với nhau, anh nói ruộng nương ở nhà anh nhờ bạn thân cày cấy, bỏ lại căn nhà tranh liêu xiêu cuối láng, dứt lòng để lại cả mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận chiến đấu.
Dù khó khăn gian khổ đến mấy chúng tôi chưa bao giờ vơi được tiếng cười, giữa không gian núi rừng Trường Sơn đại ngàn đó, dưới cái trời lạnh căm căm đó chúng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không ai nói với ai câu nào, chỉ nghe thấy tiếng gió heo hút thổi trên ngon cây mà lòng vẫn thấy ấm áp. Cuộc chiến còn dài, chúng tôi những người lính vùng quê này vẫn còn phải rời xa quê hương thêm khoảng thời gian nữa. Tuy trong lòng có chút buồn rầu, nhưng cứ hễ nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay thì mọi lo âu, sợ hãi đều tan biến hết. Tôi và những người đồng đội nơi đây chất nhận mọi gian khổ, khó khăn để có thể đưa lá cờ đỏ sao vàng đỏ tung bay giữa bầu trời hòa bình. Sống và chiến đấu cho lí tưởng cao cả như vậy, đời lính chúng tôi đâu còn gì tuyệt vời bằng.
Kể lại một truyện đồng thoại mà em yêu thích
Tham khảo
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò... ó... o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Tham khảo
Một buổi trưa hè đưa đến cho em giấc ngủ ngon lành. Trong mơ, em thấy túp lều tranh và một cây khế đang sãi trĩu quả. Thì ra, là câu chuyện “ Cây khế”. Ngày xưa, một gia đình nọ có hai anh em. Gia đình họ sống thật hạnh phúc, được mấy năm thì bộ mẹ qua đời. Một thời gian sau, người anh lấy vợ. Vì không muốn cho em ở cùng, hai vợ chồng anh đòi chia tài sản. Ỷ thế còn có vợ con ngừi anh chiếm hết tài sản chỉ để lại mọt túp lều và cây khế. người em ra đi mà không oán trách anh mình điều gì. Đến mùa khế ra quả, có con chim lạ không biết đến từ đâu tới ăn hêt trái này đến trái khác.
Người em thấy vậy sôt ruột lắm, bèn nói với chim:
“Cả gia sản nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này chim mà ăn hết tôi biết trông cậy vào đâu”
Thấy vậy chim bèn nói:
“Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”
Theo đúng lời của chim, người am may túi ba gang. Sáng hôm sau, con chim bay đến một hòn đảo ở ngoài khơi xa. Hòn nào hòn đấy lấp lánh.Đến đo người em lếy đầy túi ba gang rồi theô chim ra về. Từ đó, người em có cuộc sống khá giả.
Thấy em mình giàu có nhanh chóng người anh bèn đến thăm, lân la dò hỏi. Vốn thật thà người em kể hết chuyện cho anh nghe. Thấy vậy, người anh lền đổi cả gia tài lấy cây khế. Ngày nào anh cúng xin em đổi. Thương anh nền người em chấp nhận đổi. Đến mùa khế sai quae, hai vợ chồng người anh thay nhau trực dưới gốc cây đợi con chim lạ.
Một hôm, vợ chồng ngườ anh thấy một con chim rất to đậu trên cây khế ăn quả. Sự việc diến ra giống hệt người em. Nhưng thay vì may túi ba gang thì người anh may túi mười hai gang. Khi đến hòn đảo người anh ních đầy túi mười hai gang mà còn nhét đầy người. người anh ì ạch vác túi vàng khổng lồ và thân mình nặng trịch leo lên lưng chim. Vì nặng quá nên chim phải vỗ cánh ba lần mới bay lên được. Lúc bay qua biển, một luồng gió mạnh làm chim lảo đảo hất người anh và túi vàng xuống biển. Đúng theo câu tục ngữ “Tham thì thâm”. Đây cũng là bài học cho mọi người không nên tham lam ích kỉ.
Tham khảo:
Giới thiệu một truyện đồng thoại mà em yêu thích: Cái tết của mèo con của tác giả Nguyễn Đình Thi.
– Người kể chuyện: Ngôi thứ ba
– Một số đặc điểm nhận biết truyện Cái tết của mèo con là truyện đồng thoại: Đây là câu chuyện được viết cho thiếu nhi. Tác giả lấy loài vật (con mèo) làm nhân vật. Nhân vật con mèo trong câu chuyện được nhân cách hóa nhưng vẫn có những sinh hoạt phù hợp của con mèo ở ngoài đời thường, không xa rời cái nhìn thói quen của bạn thiếu nhi.
– Một số chi tiết tiêu biểu được tác giả miêu tả để khắc họa nhân vật con mèo:
Ngoại hình: Mèo Con tìm được một chỗ nắng ấm, nằm sưởi. Nó giũ lông một hồi, cho hết bụi tro, rồi nằm liếm mình, liếm chân, tỉ mỉ, cho đến lúc trắng nõn hết cả. Xong nó nằm im lim dim mắt, gừ gừ, nghĩ lại chuyện đêm qua. Và chú Mèo Con ngủ một giấc lúc nào không biết.Hành động: Mèo Con chạy giỡn hết góc này đến góc khác, hai tai dựng đứng lên, cái đuôi ngoe nguẩy. Chạy chán, Mèo Con lại nép vào một gốc cau, một sợi lông cũng không động – nó rình một con bướm đang chập chờn bay qua. Bỗng cái đuôi quất mạnh một cái, Mèo Con chồm ra. Hụt rồi!
Lời nói: Mèo Con vẫn không chịu ăn.– Ngheo ngheo, mẹ tôi đi đâu rồi? Ai bắt tôi về đây, buộc tôi lại thế này? Ngheo ngheo, tôi chẳng được bú tí mẹ nữa rồi.Mối quan hệ với nhân vật khác: Mèo ở nhà bà và Bống.
– Cảm nhận của em về nhân vật con mèo: kể về chú mèo đáng yêu với chiến công đầu tiên của mình, là bài học về lòng dũng cảm và sự đoàn kết trong cuộc sống dành cho các bạn nhỏ. Từ một chú Mèo Con còn non nớt, còn run sợ trước cái ác, nhưng chỉ qua một đêm, chú đã vươn mình trưởng thành như thế nào.
kể lại một câu truyện đồng thoại mà em thích
https://hoidap247.com/cau-hoi/3676271
Tham khảo
Một buổi trưa hè đưa đến cho em giấc ngủ ngon lành. Trong mơ, em thấy túp lều tranh và một cây khế đang sãi trĩu quả. Thì ra, là câu chuyện “ Cây khế”. Ngày xưa, một gia đình nọ có hai anh em. Gia đình họ sống thật hạnh phúc, được mấy năm thì bộ mẹ qua đời. Một thời gian sau, người anh lấy vợ. Vì không muốn cho em ở cùng, hai vợ chồng anh đòi chia tài sản. Ỷ thế còn có vợ con ngừi anh chiếm hết tài sản chỉ để lại mọt túp lều và cây khế. người em ra đi mà không oán trách anh mình điều gì. Đến mùa khế ra quả, có con chim lạ không biết đến từ đâu tới ăn hêt trái này đến trái khác.
Người em thấy vậy sôt ruột lắm, bèn nói với chim:
“Cả gia sản nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này chim mà ăn hết tôi biết trông cậy vào đâu”
Thấy vậy chim bèn nói:
“Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”
Theo đúng lời của chim, người am may túi ba gang. Sáng hôm sau, con chim bay đến một hòn đảo ở ngoài khơi xa. Hòn nào hòn đấy lấp lánh.Đến đo người em lếy đầy túi ba gang rồi theô chim ra về. Từ đó, người em có cuộc sống khá giả.
Thấy em mình giàu có nhanh chóng người anh bèn đến thăm, lân la dò hỏi. Vốn thật thà người em kể hết chuyện cho anh nghe. Thấy vậy, người anh lền đổi cả gia tài lấy cây khế. Ngày nào anh cúng xin em đổi. Thương anh nền người em chấp nhận đổi. Đến mùa khế sai quae, hai vợ chồng người anh thay nhau trực dưới gốc cây đợi con chim lạ.
Một hôm, vợ chồng ngườ anh thấy một con chim rất to đậu trên cây khế ăn quả. Sự việc diến ra giống hệt người em. Nhưng thay vì may túi ba gang thì người anh may túi mười hai gang. Khi đến hòn đảo người anh ních đầy túi mười hai gang mà còn nhét đầy người. người anh ì ạch vác túi vàng khổng lồ và thân mình nặng trịch leo lên lưng chim. Vì nặng quá nên chim phải vỗ cánh ba lần mới bay lên được. Lúc bay qua biển, một luồng gió mạnh làm chim lảo đảo hất người anh và túi vàng xuống biển. Đúng theo câu tục ngữ “Tham thì thâm”. Đây cũng là bài học cho mọi người không nên tham lam ích kỉ.