Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Thu Tuyền Trần Thạch
Xem chi tiết
Minh Phương
29 tháng 10 2023 lúc 21:30

*Tham khảo:

Dưới đây là danh sách 10 tác giả và tác phẩm ở tỉnh Đồng Tháp:

1. Nguyễn Ngọc Tư - Tác phẩm: "Sóng ngầm"
2. Nguyễn Quang Sáng - Tác phẩm: "Đất rừng phương Nam"
3. Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm: "Chuyện xứ Lang Biang"
4. Nguyễn Hồng - Tác phẩm: "Trăng non"
5. Bùi Thụy Đào Nguyên - Tác phẩm: "Rừng xà nu"
6. Nguyễn Thị Thuý Hằng - Tác phẩm: "Bến đò"
7. Nguyễn Xuân Hương - Tác phẩm: "Đồng Tháp mười"
8. Nguyễn Ngọc Thuần - Tác phẩm: "Đồng Tháp hôm nay"
9. Trần Văn Khê - Tác phẩm: "Văn hóa dân gian Đồng Tháp"
10. Trần Đăng Khoa - Tác phẩm: "Đồng Tháp ngày trước"

Sa Ti
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
1 tháng 6 2019 lúc 14:17

Những tác giả người Hà Nội và những tác phẩm viết về Hà Nội :

- Tác giả : Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Thế Lữ, Nguyễn Huy Thiệp, Vũ Bằng...

- Tác phẩm : Hà Nội trong cơn lốc (Vũ Bằng), Hà Nội và hai ta (Thơ, Tế Hanh), Chuyện cũ Hà Nội (truyện tư liệu, Tô Hoài), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (bút ký, Nguyễn Tuân)...

Lương Thùy Linh
Xem chi tiết
Wind
13 tháng 8 2018 lúc 21:30

                                                                    Bài làm 

Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút mở đầu cho thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó có tác phẩm “ Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã thể hiện rõ nét nỗi khổ của người dân trong thời kỳ xã hội thối nát, bọn quan lại cường hào thì ăn chơi phè phỡn, không quan tâm tới vận mệnh của người dân.

Tác phẩm đã đem lại sự tò mò của người đọc ở ngay tiêu đề. Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ phê phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho lợi riêng mình trong khi đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những người con người mà mình phải có trách nhiệm. Tác giả chỉ chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không chọn cả câu bởi ông  muốn tạo ra sự tò mò, hấp dẫn người đọc. Bởi trong câu chuyện này thì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội dung, cốt truyện. Và như ý kiến nhận xét trên đây đã đề cập, “Sống chết mặc bay” không phải để “tiền thầy bỏ túi” mà để các quan thoái thác trách nhiệm, “tự do” với cuộc ăn chơi của mình. 

Xuyên suốt tác phẩm, tác giả đã lấy bối cảnh là một cuộc hộ đê của dân làng XX… giữa mùa nước dâng cao. Không gian tác phẩm chỉ gồm hai địa điểm: đê và đình. Ngoài đê, dân tình hối hả, cực nhọc hộ đê. Trong đình, quan phụ mẫu và nha lại chơi đánh bài tổ tôm. Không gian truyện quả thực rất hẹp nhưng hai đối tượng xã hội mà tác phẩm dựng lên lại là hai giai cấp tiêu biểu, vốn có những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội đương thời: nông dân và quan lại phong kiến. Và qua công việc hộ đê trong phạm vi một làng nhỏ, tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”. 

Trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, trời tối đen như mực, nước sông Nhị Hà đang dâng lên, thế mà hàng trăm con người đang phải đội đất, vác tre, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió để cố giữ lấy đê. Ngược lại hoàn toàn với cảnh đó cách đó vài trăm thước, trong đình đèn điện sáng trưng nhộn nhịp người đi lại, “quan phụ mẫu” uy nghi chễm chệ có lính gãi chân, có lính quạt hầu, thản nhiên đánh bài: “Một người quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuộc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để đan xen hai hoàn cảnh: sự khốn khổ, điêu đứng của người dân và sự ung dung, an nhàn vô trách nhiệm của tên quan “phụ mẫu”. 

Sự tài tình khéo léo trong ngòi bút của tác giả thể hiện ở chỗ, hai hình ảnh hoàn toàn đối ngược với nhau tạo nên hai nghịch cảnh. Chính điều này càng gây ra nỗi căm phẫn trong lòng người đọc. Trời càng lúc càng mưa to, đê càng lúc càng sụt lở nhiều, dân càng lúc càng đuối sức. Thì ở trong đình, ván bài của quan càng lúc càng hồi hộp, càng gần đến hồi “gay cấn”. Kết hợp với nghệ thuật tương phản là thủ pháp tăng cấp, Phạm Duy Tốn ép không gian truyện đến nghẹt thở. Cao trào của tác phẩm dâng lên khi có người nhà quê chạy vào run rẩy báo: “Đê vỡ mất rồi”, quan phụ mẫu không những không lo lắng mà còn lớn tiếng quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày” rồi tiếp tục thản nhiên đánh bài! 

Với ngòi bút sắc sảo khi nhà văn miêu tả cảnh dân – quan, ta thấy cuộc sống nhân dân khổ đến cùng cực, sự sống mong manh, bè lũ quan lại tiêu biểu là tên quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm và lòng lang dạ thú đến tận cùng. Hiện thực ấy được thu nhỏ qua bức tranh hộ đê vô cùng gian khổ. Nhà văn cảm thông chia sẻ với cuộc sống thê thảm của người dân trong cảnh hộ đê và cảnh điêu linh của dân sau khi đê vỡ. Đó là sự tố cáo phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của bè lũ quan lại. Thái độ vô trách nhiệm ấy đã trở thành một tội ác đối với dân. Trong xã hội lúc bấy giờ, không phải chỉ có một mình tên quan phụ mẫu sống vô trách nhiệm với dân mà còn rất nhiều tên quan cũng thờ ơ với số phận của nhân dân giống tên quan phụ mẫu này. Xây dựng hình ảnh một tên quan phụ mẫu nhưng tác giả đã thay lời nhân dân tố cáo những tên quan lại vô lại làm hại dân hại nước đang tồn tại trong xã hội mà tác giả đang sống.

“Xung quanh một không gian hẹp nhưng “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lại đề cập đến những vấn đề xã hội to lớn: đó là sự khốn khổ của người dân quê trong cơn lụt lội; thói vô trách nhiệm của bọn quan lại…”. Ý kiến nhận xét đó đã khái quát được thành công về mặt nội dung tư tưởng của truyện ngắn hiện đại đầu tiên trong nền văn học nước nhà. 

Trong cuộc sống xã hội phong kiến xưa có rất nhiều những kẻ vô lương tâm, lòng lang dạ thú như tên quan phụ mẫu. Trong xã hội nay thì khác, nhà nước đã rất chú trọng đến đời sống nhân dân nhưng vẫn không ít kẻ vì lợi riêng mà mặc cho số phận, sinh mang của nhân dân. Và bởi vậy, có thể khẳng định rằng, giá trị hiện thực của truyện ngắn này vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa tới ngày nay.

Có thể nói tác phẩm Sống chết mặc bay là lời tố cáo của nhân dân với xã hội phong kiến thối nát, tạo điều kiện cho những kẻ mất nhân tính tồn tại và gieo rắc nỗi khổ cho nhân dân. Tác giả đã thương cảm cho số phận của nhân dân phải chịu nhiều áp bức bóc lột.

Wind
13 tháng 8 2018 lúc 21:31

Bài làm

Phạm Duy Tốn (1883-1924) là một trong nhà văn đầu tiên đặt nền móng cho thể loại truyện ngắn hiện đại. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh của những người dân lao động và cả chế độ của đất nước ta thời bấy giờ hiện lên một cách vô cùng chân thực. Đó chính là những người nông dân đói nghèo, vất vả nhưng luôn phải lo lắng cho cuộc sống của mình, còn những người làm quan phụ mẫu đáng lẽ phải quan tâm và chăm sóc cho những người dân của mình thì lại không hề quan tâm tới cuộc sống của những con dân phụ thuộc vào mình. Họ thờ ơ, lãnh đạm, chỉ biết hưởng thụ những thứ thuộc về mình mà thôi. Và những hình ảnh ấy đã được miêu tả một cách rõ ràng và sắc nét qua tác phẩm Sống chết mặc bay và nổi bật trong đó là nhân vật tên quan phủ.

Ngay phần mở đầu của tác phẩm, tác giả đã tập trung miêu tả một cảnh tượng hết sức cẩn trương và căng thẳng. Đó là hình ảnh của những người nông dân nhỏ bé đang cố gắng hết sức mình để giữ lấy đê ngăn không cho nước đập vỡ trong một buổi đêm trời mưa to gió lớn. Hàng nghìn những người nông dân chân lấm tay bùn không kể là ai đều phải cùng nhau chống lũ với những phương tiện hết sức thô sơ “ người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, lũ lụt”. trong hoàn cảnh như vậy, bất cứ ai cũng đều cảm thấy khẩn trương và lo lắng thì điều đầu tiên mà người đọc cảm thấy tò mò chính là việc không thấy hình ảnh của những người quan phụ mẫu ở đâu cả. Tới lúc ấy, hình ảnh của người quan mới xuất hiện. Thì ra quan phụ mẫu trong khi những người dân sức yếu hèn mọn với những công cụ thô sơ đang ra sức để giữ đê thì người quan, người có chức quyền lại đang cùng nhau chời đánh bài. Trong một khung cảnh tráng lệ, quan cùng những người có chức có quyền đang cùng nhau chơi bài, thậm chí không hề ngó ngàng gì tới những điều đang xảy ra bên ngoài kia đi chăng nữa. Khi một tên nô tài bẩm báo, thậm chí quan còn coi như không có chuyện gì xảy ra, vẫn cố tình chơi tiếp với một thái độ hết sức điềm nhiên. Cả tác phẩm theo một nhịp tăng dần đều. Khi những người nông dân ngoài kia đang cùng nhau gắng sức chống lũ, thế nhưng đó đâu có phải là điều đơn giản. Không có những vật chuyên dụng hay có sự giúp sức của quan phủ thì những cố gắng của biết bao nhiêu con người chỉ là những điều khó khăn, là lấy trứng mà chọi với đá mà thôi. Và điều gì tới đã tới. Theo nhịp tăng dần,, mỗi khi nước dâng lên, đê yếu đi là mỗi lần quan được thắng một ván bài với độ ù tăng dần. Đáng lẽ khi những người dân cần tới quan phụ mẫu nhất thì người đó lại đang thờ ơ với nỗi khổ của mọi thứ. Quan thậm chí còn đang hưởng thụ cuộc sống sung sướng “ bên cạnh ngài, mé tay trái,, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút. Quanh ngài đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp để chơi tổ tôm”. Hết ván bài này cho tới ván bài khác, quan chỉ biết ngồi rung đùi mà hưởng thụ. Có nô tài khẽ bòa “ quan, dễ có khi đê vỡ”, nhưng hắn cũng đâu có mảy may suy nghĩ bất cứ điều gì. Hắn như bị say mê bởi những ván bài đen đỏ của mình cùng những kẻ xu nịnh mà thôi. Thế mới thấy hình ảnh của người quan phụ mẫu mới ích kỉ và vô trách nhiệm cho tới mức nào. Khi những âm thanh tang tóc và thảm thiết do đê vỡ gây nên, quan nhận được tin báo, hắn không những không xem xét gì mà còn thoái thác đi trách nhiệm của mình gây nên “ ông sẽ cách cổ, bỏ tù chúng mày” rồi lại tiếp tục ván bài của mình mặc cho bao nhiêu những con người đang bị cuốn đi. Để rồi, khi quan thắng được ván ù to nhất của mình cũng là lúc con dân đang bị những dòng nước lũ cuốn trôi đi hết hoa màu gia súc. Có nỗi khổ mà không thể kêu được với bất cứ người nào. Thậm chí những kẻ được học hành ở bên cạnh quan cũng không hề nhắn nhủ gì với ngài mà cũng chỉ ở bên cạnh hùa theo.

Hình ảnh của những người quan phụ mẫu như vậy chính là những con sâu mọt trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là những kẻ vô lương tâm và ích kỉ nhất. Đáng lẽ ra những người quan phải là những người biết yêu thương con dân của mình, chăm lo cho cuộc sống của con dân thì lại không hề có bất cứ một hành động gì thể hiện được điều đó. Với chúng, điều quan trọng chỉ là cách hưởng thụ cuộc sống sao cho tốt nhất mà thôi. Điều đó khiến cho những người dân lao động thấp cổ bé họng đã phải chịu biết bao những điều khó nhọc và vất vả. Đáng lẽ họ được nhận sự quan tâm và chăm sóc từ những người quan phụ mẫu thì nay những người đó lại càng áp bức và bóc lột họ nhiều hơn ai hết để cuối cùng khi quan có được ván bài ù to nhất cũng là lúc người dân phải chịu cảnh mất mát và đau khổ nhất.

Qua tác phẩm Sống chết mặc bay cùng hình ảnh của người quan phụ mẫu, chúng ta mới thấy được hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến xưa cùng những khó khăn mà những người nông dân đã phải chịu đựng. Đồng thời cũng khiến cho người đọc càng thêm căm ghét những người đã khiến cho nhân dân rơi vào cảnh khó khăn như lúc này.

Wind
13 tháng 8 2018 lúc 21:32

Bài làm

Phạm Duy Tốn là một cây bút hiện thực phê phán đầu thế kỉ XX. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm trong đó có sống chết mặc bay một tác phẩm mang đậm tính phê phán sâu sắc. Sự đối nghịch giữa một bên là bè lũ quan lại địa phương cường hào ác bá mang tiếng là cha mẹ của dân nhưng lại thờ ơ vô trách nhiệm trước sinh mạng của dân chúng. Một bên là hình ảnh những người dân thật thà chất phác một nắng hai sương bán mặt cho đất bán lưng cho trời nay lại phải cùng nhau oằn mình chống chọi với sự giận dữ của thiên nhiên khắc nghiệt thật là đau xót.

Mở đầu tác giả đưa người đọc vào một bức tranh mà ở đó những mảng màu tối hiện lên rõ nét, sự tương phản được đẩy lên tới cùng cực, bản chất xấu xa vô lại được phơi bày trước mặt bàn dân thiên hạ trên từng trang giấy: “ gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã nước sông Nhị Hà lên to quá Khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng úng quá, hai ba đoạn để thẩm lậu rồi, không khéo vỡ mất”. Tính mạng con dân cả vùng bị “ đe dọa nghiêm trọng”. Quang cảnh cả hàng trăm con người lao động quần quật không ngại khó khăn vất vả để chống lại lũ thật cảm thương biết mấy, thật đáng để đặt ra câu hỏi trong khi dân đang oằn lưng thì quan phụ mẫu đang ở đâu và đang làm gì. “ Kẻ thì thuổng, người vác cuốc, kẻ đội đất người vác tre, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.

Người dân là vậy nhưng quan phụ mẫu người đáng lẽ phải cùng nhân dân giữ đê làng, giúp đỡ đốc thúc mọi người vá sửa đê,  di tán tài sản của nhân dân thì đang ở những nơi mà chả có ai ngờ tới hoặc có ngờ tới thì họ đã quá quen với những hình ảnh như vậy về người cha phụ mẫu của mình.Hắn ngồi chễm trệ trong đình cách đó “ bốn năm trăm thước”. Đình ấy cũng trong mặt đê làng  nhưng cao ráo và sáng sủa, dẫu có vỡ đê thì cũng chả có hề hấn gì.Giai cấp quan lại và nhân dân có sự đối lập tương phản rõ nét như vậy quang cảnh ở ngoài đê và trong đình còn khác xa nhau mà thật khó lòng mà tưởng tượng ra và chấp nhận được. Trong đình thì “ đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp. Bức tranh đối lập được đẩy lên cao trào, tính chất phê phán được bộc lộ một cách sâu sắc, có chút phẫn uất với sự thờ ơ vô trách nhiệm của bọn ăn trên ngồi trốc, có gì đó thương cảm ngậm ngùi với số kiếp của quần chúng lao khổ dưới sự bóc lột trị vì của cường hào ác bá của chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Nếu ngoài kia là thảm cảnh nước lũ dâng vỡ đê nhà cửa tan tác tính mạng tài sản bị đe dọa thì trong đình là thú vui tiêu khiển cờ bạc tệ nạn của xã hội, nếu ngoài kia gấp gáp khẩn trương chạy đua với tử thần để giữ gìn tài sản tính mạng thì trong này là sự thong dong nhà hạ, nước cứ dâng dâng nữa mưa có rơi rơi nữa thì trong đình cao ráo, mưa không tới mặt nắng không tới đầu, đê có vỡ thì thì cũng kệ chúng bay ông đây cũng không hề hấn gì.

Dựng hai cảnh đối lập đó tác giả vạch mặt bọn cường hào ác bá vô trách nhiệm bỏ mặc tính mạng của con dân. Làm quan mà vô trách nhiệm dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng là có tội là đáng bị trừng trị. Nếu vô tình không biết thì đó có thể là một lời bao biện, nhưng biết mười mươi mà vẫn vậy thì thật đáng bị trừng trị một cách nghiêm minh.
Từ xưa tới nay dân ta đã phải chịu biết bao sự áp bức bóc lột và bất công do xã hội phong kiến mà cụ thể là do bọn tham quan ô lại cường hào ác bá đem lại. Ta đã biết đến một anh Chí phèo mà cái thân phận của anh cũng bọt bèo như chính cái âm Phèo trong cái tên của anh. Anh bị xã hội phong kiến và bọn cường hào đẩy tới sát chân tường. Từ một anh nông dân chân chất thật thà chỉ có một ước muốn chính đáng sẽ có một căn nhà chồng cầy thuê cuốc mướn, vợ dệt vải cùng nhau siêng năng làm lụng nếu để tích được chút tiền sẽ mua thêm vài mảnh ruộng. Vậy mà cái ước mơ nhỏ bé cũng tan thành ảo mộng khi anh bị đẩy vào nhà tù thực dân, sau bốn năm năm trở lại đã trở thành tha hóa bị đẩy xuống đáy của xã hội. Để rồi cùng với năm thọ binh chức họ đã kêu lên những tiếng kêu đau xót ai cho tôi làm người. Cũng trong một đêm giông tố như trong sống chết mặc bay, ta gặp một người đàn bà nghèo mà buộc lòng chị phải bán con bán *** để nộp sưu và thuế thân cho chồng, tới người chết rồi nhưng gánh nặng vẫn đặt lên vai chị, em chồng chị chết từ lâu mà tên vẫn còn trong sổ. Chị Dậu, Chí phèo, hay người đàn bà trong “ Một bữa no” đã cùng viết lên tấu lên bản hành trạng về tội của bọn tham quan lòng lang dạ sói mất nhân tính không còn xứng đáng với hai chữ con người.

Để tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm sống chết mặc bay bằng tài năng của mình tác giả Phạm Duy Tốn đã sử dụng khéo léo biện pháp tạo tình huống một cách độc đáo. Đẩy con người vào tình cảnh khó khăn, ảnh hưởng tới sinh mạng để tính cách bộc lộ rõ nét, hai phe hoàn toàn khác nhau, người dân lao động chăm chỉ dốc sức hộ đê, qua tri phủ dã man thờ ơ vô nhân tính. Trong tác phẩm ta thấy thủ pháp tương phản tăng tiến được sử dụng như là một biện pháp nghệ thuật chủ yếu, tương phản sáng tối trong đình và ngoài đê, tương phản gấp gáp khẩn trương với ung dung nhàn nhã, tương phản sự bao bọc cùng nhau vượt qua hoạn nạn với sự phè phỡn xu nịnh của bọn tham quan.Xây dựng nhân vật điển hình cho phe phản diện trong tác phẩm.

Qua tác phẩm tác giả đã bộc lộ niềm cảm thông với những con người lao động đồng thời lên án bọn tham quan ô lại vô trách nhiệm táng tận lương tâm.

Phạm Hoàng Khôi Nguyên
Xem chi tiết
Sa Ti
Xem chi tiết
Vân Trường Phạm
16 tháng 3 2021 lúc 19:52

1 trong 4 kiểu câu trên là gì v bạn

Vân Trường Phạm
16 tháng 3 2021 lúc 19:58

Nhà thơ Thế Lữ sinh năm 1907 mất năm 1989, tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông- nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.Bài thơ “Nhớ rừng” được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” xuất bản năm 1935. Bài thơ mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú để thể hiện ý chí căm hờn, u uất và niềm khát khao tự do mãnh liệt của tác giả cũng như những người bị giam cầm, bị nô lệ. Thành công của tác giả Thế Lữ là sử dụng nghê thuật đối lập mang hình ảnh đặc săc của bài thơ qua đó tác phẩm phản ánh qua cuộc sống bất bình thời phong kiến.  Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy. Có thể nói, Nhớ rừng là tác phẩm thành công nhất của Thế Lữ nói riêng và trong phong trào Thơ mới nói chung.

Dương Vũ Nam Khánh
Xem chi tiết
Nguyễn Quốc Thiện
Xem chi tiết
Thu Tuyền Trần Thạch
Xem chi tiết
bounty_hunter
1 tháng 1 lúc 23:46

Tham khảo:
 

Viết về nông thôn và người nông dân là một mảng đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Trong rất nhiều tác phẩm và tác giả thành công khi viết về đề tài này có Kim Lân và truyện ngắn Làng.

Nhà văn Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Vãn Tài, sinh năm 1920, mất năm 2007, quê gốc tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân trong gia đình nghèo. Nhà văn Kim Lân đã qua hoạt động văn hóa cứu quốc, trong kháng chiến chống Pháp công tác ở chiến khu Việt Bắc. Từng là ủy viên Ban phụ trách Nhà xuất bản Văn học, Trường bồi dưỡng những người viết trẻ, tuần báo Văn Nghệ, Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và chủ yếu về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ, những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm. Sau tiếp cận với đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng, Kim Lân viết về những người nông dân đi theo cách mạng và sự đổi đời của họ. Tác phẩm đã xuất bản: Nên vợ nên chồng (truyện ngắn, 1955); Con chó xấu xí (truyện ngắn, 1962); Hiệp sĩ gỗ, Ông cả Ngũ...

Truyện ngắn Làng được nhà văn Kim Lân viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trọn tạp chí Văn nghệ năm 1948 với nhân vật chính là ông Hai, một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.

Trong kháng chiến, ông Hai - người làng Chợ Dầu, buộc phải rời làng. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ và tự hào về làng mình, ông vui với những tin kháng chiến qua các bản thông tin. Ông lấy làm vui sướng và hãnh diện về tinh thần anh dũng kháng chiến của dân làng. Nhưng bất ngờ nghe tin làng ông theo giặc, từ lúc ấy, "cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân" và luôn mang nỗi ám ảnh nặng nề, thậm chí "cúi gằm mặt mà đi". Suốt mấy ngày, ông luôn chột dạ, đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng mình theo giặc vì ông rất yêu làng, yêu nước. Khi được tin cải chính, ông vui sướng như người đã chết đi được sống lại ông lại vui vẻ, phấn chấn và càng tự hào về làng của mình. Nội dung ý nghĩa: Qua tâm trạng đau xót, tủi hổ của ông Hai ở nơi tản cư khi nghe tin đồn làng mình theo giặc, truyện thể hiện tình yêu làng quê sâu sắc thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân.

 

Xây dựng cốt truyện tâm lí. Cách miêu tả chân thực, sinh động tâm lý nhân vật. Trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với tình huống truyện đặc sắc những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Đọc truyện ngắn Làng của Kim Lân, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc khi viết về người nông dân của văn học Việt Nam hiện đại.