Kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. phản động trong nước.
B. thực dân Pháp.
C. phong kiến tay sai.
D. đế quốc Mĩ
Kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. phản động trong nước
B. phong kiến tay sai
C. thực dân Pháp
D. đế quốc Mĩ
Đáp án D
Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ
Kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. phản động trong nước.
B. phong kiến tay sai.
C. thực dân Pháp.
D. đế quốc Mĩ.
Chọn đáp án D
Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.
Kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. phản động trong nước.
B. phong kiến tay sai.
C. thực dân Pháp.
D. đế quốc Mĩ.
Đáp án D
Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.
Kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. phản động trong nước
B. thực dân Pháp.
C. phong kiến tay sai.
D. đế quốc Mĩ
Đáp án D
Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.
Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:
Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa, các giai cấp ở Việt Nam có những chuyển biến mới.
Giai cấp địa chủ phong kiến tiếp tục phân hóa. Một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ tham gia phong trào dân tộc dân chủ chống thực dân Pháp và thế lực phản động tay sai.
Giai cấp nông dân ngày càng bần cùng, không có lối thoát. Mâu thuẫn giữa nông dân với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai hết sức gay gắt. Nông dân là lực lượng cách mạng to lớn của dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng. Họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai. Giai cấp tư sản ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, bị phân hóa thành hai bộ phận: tầng lớp tư sản mại bản có quyền lợi gắn với đế quốc nên câu kết chặt chẽ với chúng; tầng lớp tư sản dân tộc có xu hướng kinh doanh độc lập nên ít nhiều có khuynh hướng dân tộc và dân chủ.
Giai cấp công nhân ngày càng phát triển, bị giới tư sản, đế quốc thực dân áp bức, bóc lột nặng nề, có quan hệ gắn bó với nông dân, được thừa hưởng truyền thống yêu nước của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản. Nên đã nhanh chóng vươn lên thành một động lực của phong trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại.
Như vậy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những biến đổi quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp và phản động tay sai. Cuộc đấu tranh dân tộc chống đế quốc và tay sai tiếp tục diễn ra với nội dung và hình thức phong phú.
Những giai cấp nào ra đời do hệ quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp tại Việt Nam?
A. Công nhân, nông dân, địa chủ phong kiến, tiểu tư sản, tư sản dân tộc.
B. Tiểu tư sản, tư sản dân tộc.
C. Nông dân, địa chủ phong kiến.
D. Công nhân, tư sản dân tộc, địa chủ phong kiến.
Đáp án B
- Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, xã hội Việt Nam có các giai cấp: công nhân, nông dân và địa chủ phong kiến. Tư sản và tiểu tư sản mới chỉ hình thành các bộ phận, nhỏ về số lượng.
- Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, hai bộ phận tư sản và tiểu tư sản phát triển nhanh về số lượng và thế lực, hình thành hai giai cấp mới
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 là
A. kháng chiến chống Pháp.
B. đấu tranh giành độc lập.
C. xây dựng chủ nghĩa xã hội.
D. kháng chiến chống Mĩ.
Đáp án D
Sau năm 1954, Mĩ tiến hành xâm lược Lào và Việt Nam.
- Ở Lào: sau năm 1954, Đảng Nhân dân Lào lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Mĩ trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao và giành nhiều thắng lợi. Đến năm 1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trên cả nước, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức được thành lập.
- Ở Việt Nam: sau năm 1954, Mĩ dựng lên chính quyền Ngô Định Diệm, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đấu tranh mạnh mẽ và kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân năm 1975.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. kháng chiến chống Pháp.
B. xây dựng chủ nghĩa xã hội.
C. đấu tranh giành độc lập.
D. kháng chiến chống Mĩ.
D.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là kháng chiến chống Mĩ.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là
A. kháng chiến chống Pháp.
B. xây dựng chủ nghĩa xã hội.
C. đấu tranh giành độc lập.
D. kháng chiến chống Mĩ.
Đáp án: D
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là kháng chiến chống Mĩ.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 là
A. kháng chiến chống Pháp
B. đấu tranh giành độc lập
C. xây dựng chủ nghĩa xã hội
D. kháng chiến chống Mĩ
Đáp án D
Sau năm 1954, Mĩ tiến hành xâm lược Lào và Việt Nam.
- Ở Lào: sau năm 1954, Đảng Nhân dân Lào lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Mĩ trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao và giành nhiều thắng lợi. Đến năm 1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trên cả nước, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức được thành lập.
- Ở Việt Nam: sau năm 1954, Mĩ dựng lên chính quyền Ngô Định Diệm, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đấu tranh mạnh mẽ và kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân năm 1975