Đỗ Phủ được mệnh danh là?
A. Thi thơ
B. Phật thơ
C. Tiên thơ
D. Thánh thơ
Nhà thơ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là gì? *
A. Thần thánh thơ chữ
B. Nữ hoàng thi ca
C. Bà chúa thơ Nôm
D. Thi tiên thi thánh
câu 1
a.nhà thơ nào đc mệnh danh là thi tiên ?
b.nhà thơ đc mệnh danh là thi thánh ?
c.bài thơ nào đc coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc (viết tên hán)
a, Lý Bạch
b, Đỗ Phủ
c, Nam Quốc Sơn Hà- Lý Thường Kiệt
Nhà thơ Đỗ Phủ được mệnh danh là gì?
A. Thi tuyệt
B. Thi tiên
C. Thi thần
D. Thi thánh
Câu 3: Nhà thơ HồXuân Hương được ngư ời đương thời mệnh danh là gì?
A.Nữ sĩ thơ Nôm
C. Bà chúa thơ Nôm
B.Thi Tiên
D. Thi Thánh
Đỗ Phủ được mệnh danh là thánh thơ. Em hãy chứng minh điều đó qua bài thơ đã học'' Bài ca nhà tranh bị gió thu phá''
mình chỉ gợi ý cho bạn thôi nha.dàn bài thôi:
mở bài:
đỗ phủ là một nhà thơ nổi tiếng thời Đường.
bài ca nhà tranh bị giò thu phá của ông là một tác phẩm tiêu biểu. bài thơ như lời kêu than,ước mơ ,nỗi bất hạnh nghèo đói của đỗ phủ
thân bài:
nói nỗi khổ của nhà thơ trong cơn hoạn nạn:căn nhà rách nát,ọp ẹp đỡ sao qua cơn gió mạnh tháng tám,tranh nhà bị gió cuốn bay đi mất,cảnh nhà tan tác,tiêu điều.ấy vậy mà lại còn bị lũ trẻ con kinh thường là mình già không gào thét được chúng.sự ấm ức của nhà thơ.tuy vậy nhưng đỗ phủ cũng xót thương cho lũ trẻ con đó,tại sao chúng lại phải làm như vậy đó là do lúc đó xã hội trung quốc đang loạn ly,con người rất nghèo khổ.tác giả không ngủ được vì đau ốm,bệnh tật,vì rét,lo cho vận mệnh đất nước
-câu hỏi tu từ đêm dài ướt át sao cho trót? như tiếng thở dài,phản ánh hiện thục bế tắc mà không chỉ riêng nhà thơ mà còn cả xã hội đang phải gánh chịu
qua đó em thật cảm thông cho cái hoàn cảnh nghèo khổ của đỗ phủ,tấm lòng,sự lo lắng cho hoàn cảnh khó khăn của đất nước mình
-đoạn còn lại:
- ước vọng của nhà thơ:có nhà rộng muôn ngàn gian để có thể tránh thân mình nói riêng và cũng đồng thời che chơ cho những người có hoàn cảnh như mình.đo' là một ước mơ cao cả
-qua đó thì cho em hiểu thêm về đõ phủ:là một người có lòng vị tha và tinh thần nhân đạo.
kết bài:
từ đó bạn rút ra bài học gì(tự suy nghĩ ha)(gợi ýhải thông cảm hiểu cho hoàn cảnh những mảnh đời nghèo khó và thật may mắn cho mình khi có điều kiện sống khá tốt.....còn nữa thì tự nghĩ nhé bạn)
à!vì đây là một bài văn biểu cảm,cảm nghĩ nên bạn không nên lạc đề làm một bài phân tích tác phẩm mà trong bài bạn luôn phải đánh giá, nhận xét,tìm và phân tích kĩ các điểm sáng nghệ thuật có trong bài.hì được rồi đó.chúc bạn đạt điểm thật tốt nhé.
Chúc bạn học tốt
1. Mở bài
-Giới thiệu sơ lược
+Tác giả Đỗ Phủ.
+Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc. Tên chữ là Tử Mĩ, bút hiệu là Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam.
+Ông đỗ đạt muộn, ra làm quan trong một thời gian rất ngắn.
+Năm 759, ông từ quan về quê, sống trong cảnh nghèo khổ cùng gia đình.
-Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”.
+Hoàn cảnh sáng tác: Được sáng tác trong thời gian ông về quê, sống cảnh nghèo khổ cùng gia đình.
+Cảm nhận chung Phản ánh cuộc sống cơ cực của gia đình Thể hiện lòng nhân ái cao cả của Đỗ Phủ trước những cảnh đời bất hạnh như mình.
2. Thân bài
a. Nỗi khổ tâm của nhà thơ trước cảnh căn nhà tranh bị gió thu thổi tốc mái
-Hình ảnh ngôi nhà tan hoang
''Tháng tám thu cao gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta... ''
Thời gian là cuối thu (Thu cao), gió thổi rất mạnh (gió thét già), cả mái nhà bị gió thu thổi bay (cuộn mất ba lớp tranh..). Mảnh treo trên ngọn cây cao trong rừng xa, mảnh rơi vào mương nước trước mặt...
-Tâm trạng đau xót và bất lực của nhà thơ
+Trước cảnh lũ trẻ lao vào cướp những tấm tranh lợp nhà, nhà thơ đau lòng nhưng
''Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Chống gậy quay về lòng ấm ức.''
→ Tình cảnh khốn, khổ của gia đình nhà thơ trong đêm mưa lạnh
⇒ Gió gào thét, màn đêm buông xuống cùng cơn mưa rả rích suốt đêm đã đẩy vợ chồng, cha con nhà thơ vào cảnh ngộ đáng thương: Nằm co quắp trong đống chăn đệm cũ nát, lạnh ngắt, dưới trời mưa dầm dề, giá buốt.
-Những hình ảnh tả thực gây xúc động:
''Trời thu mịt mịt, đêm đen đặc,
Dày hạt mưa mưa, mưa chẳng dứt,
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt...
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu... ''
-Nhà thơ vốn ít ngủ từ khi thời thế lâm vào cảnh binh đao, loạn lạc. Suốt đêm mưa lạnh, ông trằn trọc, thao thức, mong trời mau sáng. Ước mơ cao cả xuất phát từ tấm lòng nhân ái của nhà thơ
+Trong cảnh bị mưa dập, gió vùi, nhà thơ đau lòng nghĩ đến bao nhiêu kẻ sĩ nghèo khó cũng lâm vào cảnh ngộ khốn khổ như mình.
+Ông ước có được ngôi nhà rộng muôn ngàn gian để che chở cho họ: ''Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kể sĩ nghèo đểu hân hoan...''
→ Nếu ước muốn ấy thành sự thực thì dù: “Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
⇒ Quên mình vì người, đó là lòng nhân ái cao cả của nhà thơ.
3. Kết bài
Ấn tượng chung về bài thơ và tác giả “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ. Nguyễn Du, nhà thơ kiệt xuất của nước ta đã tôn vinh Đỗ Phủ là “Bậc thầy muôn đời của vãn chương muôn đời”.
đây là bài làm nha:
Đời Đường - Trung Quốc trong khoảng những năm 618-907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là "thi thánh". Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị).
Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.
Tháng tám, thu cao, gió thét gào,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước... Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương.
Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân.
Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là "đạo tặc".
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức.
Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ "già yếu", trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn "Đạo tặc". Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời.
Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt.
Tuổi già, sức yếu, bệnh tật... lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột... Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán.
Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm... cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Chúc bạn học tốt
- Đỗ Phủ và Lý Bạch là 2 nhà thơ như thế nào?
- Lý Bạch đc mệnh danh là gì?
Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai nhà thơ lớn xuất sắc của Trung Quốc. Thơ của hai người tràn ngập tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống...
Lý Bạch được mệnh danh là "Thi Tiên", nghĩa là tiên thơ.
Lý Bạch – Wikipedia tiếng Việt
Đỗ Phủ – Wikipedia tiếng Việt
Bn vào 2 link đó sẽ rõ
Chưa học nên chưa bik
Hok tốt
# Smile #
Thi tiên Lý Bạch
Lý Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, tổ tiên vốn ở Long Tây Thanh Kỷ (nay là thành phố Thiên Thuỷ, tỉnh Cam Túc), trước thời mạt Tuỳ, ông ở vùng Trung Á, sinh ở Toái Hiệp (nay là Tokmok, Kyrgystan). 5 tuổi, theo cha về ở huyện Chương Minh Cẩm Châu (nay là huyện Giang Khúc tỉnh Tứ Xuyên).
Năm 25 tuổi, “chỉ kiếm khứ quốc, từ thân viễn du, nam cùng Thương Ngô, đông lạc minh hải”. Sau đó ông ở lại An Lục. Khoảng 10 năm sau, lại phía bắc đi đến Thái Nguyên, tây đến Trường An, phía đông đến Lỗ Quận, kết giao với không ít nhân vật nổi tiếng, viết không ít thơ văn. Truyền thuyết nói khi đến Trường An, Hạ Tri Chương gặp ông, ngạc nhiên vì vẻ “thi tiên nhân”, gọi thơ ông là khốc quỷ thần, giới thiệu ông gia nhập thi đàn ở kinh đô. Năm Thiên Bảo nguyên niên, được sự dẫn dắt của công chúa Ngọc Trân, ông được triệu vào cung làm ở Hàn Lâm cung phụng, được sự đối đãi rất tử tế của Huyền Tông Lý Long Cơ. Nhưng Hàn Lâm chẳng qua chỉ là cái tên gọi mà không có thực quyền. Dưới con mắt của Lý Bạch, đây chỉ là một lồng chim cảnh, một người có chí phò tá thiên hạ như ông, ở đây tất không có cách nào để thực hiện hoài bão. Ở trong cung được hai năm, ông được “thưởng vàng rồi cho về”.
Sau khi rời Trường An, Lý Bạch sống cuộc đời lang thang trôi nổi trong một thời gian dài, dấu chân của ông từng đi qua Tống, Tề, Lỗ, U, Ký, ông muốn ở ẩn ở Lư sơn, nhưng rồi lại được Vĩnh Vương mời tha thiết tham gia mạc phủ. Ở đó 2 năm, Vĩnh Vương bị Túc Vương đánh bại, Lý Bạch phải rời Dạ Lang, đi đến Vu Sơn thì lại được tha. Năm 61 tuổi, Lý Quang Bật làm đông trấn ở Lâm Hoài, Lý Bạch nghe tin bèn ra mắt xin đi đánh giặc hy vọng những năm tuổi già có thể trả thù cho nước, nhưng rồi bị bệnh trên đường nên phải trở về, năm sau ông bị bệnh chết ở nhà Lý Dương Băng một nhà thư pháp nổi tiếng đời Đường ở huyện Đương Đồ.
Lý Bạch yêu tha thiết non sông đất nước, ông có tình cảm hào hùng, những vần thơ phóng khoáng ca ngợi vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc. Ông miêu tả con sông Hoàng Hà nước chảy cuồn cuộn, đường vào Thục gập ghềnh hiểm trở, cảnh hùng vĩ của Cửu Thiên, khung cảnh bao la bát ngát chưa từng có, tái hiện hình tượng thiên nhiên hùng vĩ. Ông đã từng dựa vào tưởng tượng, miêu tả Thiên Lão sơn, một thế giới thần tiên hùng vĩ tráng lệ, biểu hiện khát vọng và nhu cầu tự do phóng khoáng. Những sáng tác của Lý Bạch đã thể hiện quá trình học tập vô cùng gian khổ các nhà thơ đời trước. Trong các tác phẩm của ông còn giữ lại rất nhiều những thơ, phú bắt chước người xưa. Ông đề cao Phụng, Nhã, ca ngợi Kiến An, trong thơ ca của ông có thể tìm thấy các tác phẩm nổi tiếng của nhiều đời, đặc biệt nổi bật là việc học tập dân ca Nhạc Phủ. Thơ ca của ông có nhiều nét đặc sắc với giọng điệu hào hùng, phóng khoáng.
Từ đời viễn cổ, ban đầu nhân dân đã sáng tác ra các thần thoại truyền thuyết, đó là những biểu hiện đầu tiên của chũ nghĩa lãng mạn trong văn học. Đến thời Chiến Quốc, Khuất Nguyên đã đạt được những thành tựu về văn học và văn hoá, trong thực tiễn đấu tranh đã sáng tác những tác phẩm thơ ca sáng chói, nội dung phong phú và cao đẹp, hình thức kỳ diệu, đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa lãng mạn. Ông đã tiếp thu những triết lý và tản văn của Trang Tử sáng tạo nên rất nhiều những ngụ ngôn với ý tưởng kỳ lạ, có những cống hiến đáng kể cho chủ nghĩa lãng mạn. Từ Lưỡng Hán đến Sơ Đường, các sáng tác dân gian và sáng tác của các nhà văn, truyền thống của chủ nghĩa lãng mạn không ngừng phát triển. “Mạch Thượng tang”, “Mộc lan từ” trong Hán Nguỵ Lục triều và dân ca Nhạc phủ, một số tác phẩm của Tào Thực, Nguyễn Tịch, Tả Tư, Đào Uyên Minh, Bào Chiếu, những truyền thuyết ưu tú của tiểu thuyết chí quái thời Lục triều đề thể hiện chủ nghĩa lãng mạn một cách phong phú. Đến đời Thịnh Đường đã xuất hiện những đỉnh cao của chủ nghĩa lãng mạn mà Lý Bạch là tiêu biểu.
Sự cách tân của Lý Bạch trong thơ ca đời Đường cũng có những cống hiến đặc biệt, ông tiếp thu chủ trương cách tân trong thơ ca của Trần Tử Ngang, qua lý luận và thực tiễn đã khiến cho thơ ca cách tân của ông đạt được những thành công, trong bài thứ nhất “Cổ phong” ông hồi tưởng lại toàn bộ lịch sử phát triển của thơ ca, đã chỉ ra “Tự tòng Kiến An lai, kỳ lệ bất túc trân”. Với tinh thần tự hào, khẳng định những hạn chế của thơ Đường lúc đó , khôi phục con đường chính xác của Phong, Nhã truyền thống. Trong bài thứ 35 Cổ phong, lại phê phán phong cách thơ ca hình thức chủ nghĩa đương thời bắt chước trau chuốt coi thường nội dung tư tưởng “Nhất khúc phỉ nhiên tử, Điêu trùng tang thiên chân”. Trong thực tiễn sáng tác, ông và Trần Tử Ngang có nhiều nét giống nhau: viết nhiều cổ thể, ít thơ luật, nhưng ông đã học tập dân ca Nhạc phủ ra sức khai thác thơ 7 chữ, thành tựu của ông vượt xa Trần Tử Ngang. Những cố gắng này của ông trong việc cách tân thơ ca đã có những tác dụng vô cùng to lớn. Sau khi ông mất, Lý Dương Băng đã đề trong “Thảo đường tập” của ông: “Đây là những đánh giá chính xác những đóng góp của ông trong việc cách tân thơ ca.”
Với đời sau, thơ ca của Lý Bạch cũng có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Những bài thơ nổi tiếng đương thời đã được phổ biến, đến thời Trinh Nguyên, thơ ông chưa được in thành quyển nhưng “nhà nhà đều có”. Thời Trung Đường, Hàn Dũ, Mạnh Giao đã ra sức ca ngợi thơ ông, lại từ việc tiếp thụ những kinh nghiệm của ông, sáng tạo nên những bài thơ có phong cách độc đáo. Những đặc điểm của phong cách lãng mạn chủ nghĩa trong thơ ông càng thể hiện và phát triển. Các nhà thơ đời Tống như Tô Thuấn Khâm, Vương Lệnh, Tô Thức, Lục Du, các nhà thơ Minh Thanh như Cao Khải, Dương Thận, Hoàng Cảnh Nhân, Cung Tự Trân cũng cũng được nuôi dưỡng bằng thơ ca của ông. Ngoài ra, Tô Thức, Tân Khí Tật với những bài từ hào phóng cũng chịu ảnh hưởng của ông. Một số câu chuyện truyền thuyết được viết thành tiểu thuyết, lan truyền trong dân gian cũng biểu hiện nhiệt tình của nhân dân đối với ông.
Nét đặc sắc của chủ nghĩa lãng mạn mãnh liệt đã tạo nên đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của Lý Bạch. Sau Khuất Nguyên, ông là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất của nước ta. Ông có trí tưởng tượng vô tận, vận dụng những câu chuyện ly kỳ của thần thoại, dùng tình cảm mãnh liệt của mình để miêu tả đối tượng với ngòi bút khiến mọi người phải kinh ngạc, ý tứ phóng túng đã miêu tả thế giới sắc sảo lạ kỳ. Thơ ca của ông chứa đựng nội dung mãnh liệt và hình thức hấp dẫn là viên ngọc chói sáng trong tài sản tinh thần của nhân dân ta.
Thi thánh Đỗ Phủ
Đỗ Phủ (712 – 770) tự là Tử Mỹ, khi làm thơ tự xưng là Thiếu Lăng Dã Lão, quê ở Tương Dương (nay thuộc Hồ Bắc), sau đó dời về huyện Củng (nay thuộc Hà Nam), là cháu của Đỗ Thẩm Ngôn. Từ nhỏ ông đã học giỏi, tri thức uyên bác, rất có chí lớn về chính trị. Cùng với Lý Bạch ông là một trong các nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường. Trong lịch sử văn học, người ta thường gọi chung là Lý Đỗ. Đỗ Phủ sinh trưởng trong một gia đình quan lại nhưng đã thất thế, từ nhỏ đã khổ công đọc sách cũng đã từng đi du lịch ở những nơi núi cao rừng thẳm, viết được rất nhiều những tác phẩm xuất sắc. Khi ngoài ba mươi tuổi, ông gặp Lý Bạch ở Lạc Dương. Đỗ Phủ kém Lý Bạch tới 11 tuổi, hai người có tính cách không giống nhau nhưng do cùng chí hướng và tình cảm nên họ đã trở thành những người bạn thân thiết. Sau đó, ông đến Trường An tham gia kỳ thi tiến sĩ, lúc này gian tướng Lý Lâm Phủ đang nắm quyền, Lý Lâm Phủ rất căm ghét những kẻ đọc sách, sợ những người này khi bước vào quan trường, sẽ bàn bạc về việc triều chính, không có lợi cho hắn, vì thế, hắn cấu kết với các quan chấm thi, lừa dối Huyền Tông, nói rằng những người dự thi lần này rất kém, không có một ai đủ tư cách trúng tuyển. Đường Huyền Tông lấy làm lạ, Lý Lâm Phủ lại dâng một bản tấu chương, nói là nhờ có sự anh minh của hoàng đế, bao nhiêu người có tài năng đều đã được tuyển dụng hết, trong dân gian không còn một ai là hiền tài nữa.
Những kẻ đọc sách lúc ấy đều coi khoa cử là con đường tiến thân, Đỗ Phủ sau lần vấp ngã này, trong lòng buồn bực không nói nên lời. Ông sống cuộc sống gian khổ thiếu thốn ở Trường An, tận mắt chứng kiến cuộc sống quyền quý xa xỉ của tầng lớp giàu có và những tình cảnh đói rét thảm thương của bao người, trong lòng lại càng thêm tức giận, đã dùng thơ ca nói lên nỗi bất bình trước những thảm cảnh này. “Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đông tử cốt” (Cửa son rượu thịt thối, trong khi ngoài đường là xương của những người chết vì đói rét) chính là những câu thơ bất hủ của ông.
Đỗ Phủ ở Trường An 10 năm, Đường Huyền Tông mới phong cho ông một chức quan thì loạn An Sử nổ ra. Trăm họ ở Trường An đua nhau bỏ chạy. Cả gia đình Đỗ Phủ cùng với bao nạn nhân khác, chịu cảnh đói rét cơ hàn tìm về nơi thôn dã hy vọng tìm được cuộc sống bình yên. Đang lúc đó, ông nghe nói Đường Túc Tông đang dời về Linh Võ, ông xa gia đình tìm đến với Túc Tông nhưng đi được nửa đường thì gặp quân An Lộc, bị bắt đưa về Trường An.
Trường An lúc ấy đã nằm trong tay quân nổi loạn, chúng tha hồ chém giết, cung điện và nhà cửa của dân cháy ngút trời. Các quan lại của triều Đường người thì đầu hàng có người bị bắt đưa đi Lạc Dương. Sau khi Đỗ Phủ bị bắt đưa về Trường An, bọn cầm đầu của loạn quân thấy ông không có vẻ gì là quan lớn nên lại thả ông ra.
Năm sau, Đỗ Phủ chạy khỏi Trường An, nghe nói Đường Túc Tông đã tới Phụng Tường ( nay là Phụng Tường, Thiểm Tây) ông đã đến Phụng Tường gặp Túc Tông. Lúc ấy, mọi thứ quần áo của Đỗ Phủ đều không còn cái nào lành lặn, trên người mặc chiếc áo đã rách cả khuỷu tay, chân đi một đôi giày cũ. Đường Túc Tông thấy Đỗ Phủ về với triều đình, tỏ thái độ hoan nghênh, cử ông làm chức quan Tả thập.
Tả thập là làm việc can vua. Đường Túc Tông tuy cho Đỗ Phủ làm chức quan này, nhưng chưa có ý muốn trọng dụng ông. Đỗ Phủ thì lại chưa biết điều này, không lâu sau, khi Tể tướng Phòng Quản bị Túc Tông cách chức, Đỗ Phủ thấy ông là người rất có tài năng nên đã làm một bản tấu chương can gián Túc Tông. Lần này, ông đã đắc tội với Túc Tông, may mà có người nói giúp với Túc Tông ông mới thoát nạn về nhà.
Sau khi quân Đường lấy lại được Trường An, Đỗ Phủ cũng cùng với rất nhiều quan lại trở về kinh đô. Đường Túc Tông đã cử ông đến Hoa Châu (nay là huyện Hoa, Thiểm Tây) làm việc quản lý việc cúng lễ, một chức quan nhỏ trong trường học. Đỗ Phủ với tâm trạng không vừa ý đến huyện Hoa. Lúc ấy, mặc dù Trường An, Lạc Dương đã được triều Đường giành lại nhưng quân An Lộc chưa bị tiêu diệt, chiến sự còn rất ác liệt. Quân Đường còn phải đến các nơi tuyển thêm quân lính đưa muôn dân vào trong vòng cơ cực. Có một hôm, Đỗ Phủ đi qua thôn Thạch Hào (nay thuộc đông nam huyện Thiểm, tỉnh Hà Nam), lúc ấy đã rất khuya. Ông đến một gia đình người nông dân nghèo ngủ nhờ, đón ông là hai vợ chồng một lão nông. Nửa đêm, , đang lúc ông ngủ say, bỗng có tiếng gọi cửa ầm ĩ. Đỗ Phủ ở trong nhà lắng nghe, chỉ thấy tiếng qua lại ngoài kia, bà lão ra mở cửa theo lời yêu cầu của người ngoài đường. Bước vào nhà là mấy người sai dịch, họ to tiếng hỏi bà lão: “Nhà bà có mấy người đàn ông?”
Bà lão vừa khóc vừa nói: “Tôi có ba đứa con đều đi dánh trận ở Nghiệp Thành cả, hai hôm trước có một đưa nhắn tin về, nói hai anh em đều đã chết ở chiến trường. Trong nhà bây giờ chỉ còn một đứa con dâu và đứa cháu còn đang bú. Ông còn muốn hỏi gì?”
Bà lão còn phải cầu xin rất nhiều, nhưng sai dịch vẫn chưa tin, bà lão đành phải đưa sai dịch đến nơi binh lính làm khổ dịch. Trời sáng, khi Đỗ Phủ lên đường, chỉ có lão ông đưa tiễn.
Đỗ Phủ tận mắt chứng kiến tình cảnh thê thảm ấy, trong lòng rất xúc động, ông đem chuyện này viết thành thơ, gọi là “Thạch Hào sứ” . Khi ở Hoa Châu ông đã lần lượt viết 6 bài thơ về đề tài này, gộp lại gọi là “Tam sứ tam biệt” (Thạch Hào sứ, Đồng Quan sứ, Tân An sứ, Tân hôn biệt, Thừa lão biệt, Vô gia biệt). Từ đó, phần lớn thơ ca của Đỗ Phủ viết về tình cảnh lầm than của muôn dân trong loạn An Sử, phản ánhquá trình từ hưng thịnh đến suy vong của triều Đường, cho nên mọi người mới gọi thơ ông là “Thi sử” ( sử bằng thơ).
Năm sau, ông từ chức quan ở Hoa Châu. Tiếp đó, ở Quan Trung trời làm đại hạn, cả nhà Đỗ Phủ không thể ở được bèn về Thành Đô, dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè, ông ở bên suối Hoàn Hoa ở ngoại thành phía tây của Thành Đô, làm được một ngôi nhà nhỏ và ở đó gần 4 năm. Về sau, vì bạn bè đều đã chết, ở Thành Đô không có ai nương tựa nên cả nhà lại phiêu bạt về phía đông. Năm 770, vì đói nghèo và bệnh tật, ông chết trên một con thuyền nhỏ ở Tương Giang.
Sau khi ông chết, để kỷ niệm về một nhà thơ vĩ đại, mọi người lưu giữ lại căn nhà nhỏ bé của ông ở ngoại ô Thành Đô, dó chính là “Đỗ Phủ thảo đường” nổi tiếng.
Nhà thơ nào được mệnh danh là Tiên thơ của nền văn học Trung Quốc
A. Lý Bạch
B. Đỗ Phủ
C. Bạch Cư Dị
D. Vương Bột
Lời giải:
Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" (tức là tiên thơ). Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài với một số tác phẩm tiêu biểu như Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...Thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ, tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông cho người chinh phụ, về tình bạn hữu, nhớ quê hương…
Đáp án cần chọn là: A
đề : một nhà khoa học việt nam khi đến thăm nhà kỉ niệm Đỗ phủ(xây ở nơi ngôi nhà tranh năm xưa)có viết mấy dòng thơ:
thử xử tàng ngầm"sở phá ca"
kim thiên"quảng hạ" mãn sơn hà
na tri trung đại dương thi bá
hoàn thị tiên tri đệ nhất gia!
dịch nghĩa:
nơi này(đỗ phủ) từng viết bài thơ Nhà tranh bị gió thu phá
ngày nay những nơi nhà rộng lớn đã xuất hiện khắp non sông
có ngờ đâu nhà thơ lớn đời đường thời trung đại
còn là nhà tiên tri số một!
a, dựa vào hiểu biết về cuộc đời đỗ phủ, những điều cảm nhận được từ việc học bài thơ bài ca nhà tranh bị gió thu phá, hãy viết khoảng 10 câu để bình về câu thơ trên
b, em hãy dịch bài thơ trên theo nguyên thể hay theo một thể tùy ý sau khi viết lời bình
Theo em vì sao bài thơ "Sông núi nước Nam" được mệnh danh là bài thơ thần. Việc bài thơ được
mệnh danh là bài thơ thần có ý nghĩa gì?
muốn giặc hoảng sợ bỏ chạy
và nói nước nam là của người nam k ai được xâm phạm
Nhà thơ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là gì ?
A.
Bà chúa thơ Nôm.
B.
Đệ nhất nữ sĩ
C.
Nữ hoàng thi ca.
D.
Bà Huyện Thanh Quan
Nhà thơ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là gì ?
A.
Bà chúa thơ Nôm.
B.
Đệ nhất nữ sĩ
C.
Nữ hoàng thi ca.
D.
Bà Huyện Thanh Quan