Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Minh Lệ
Xem chi tiết
animepham
17 tháng 7 2023 lúc 21:05

Những câu nào sau đây là sai về ý nghĩa của việc sử dụng thư viện khi viết chương trình?

A. Chương trình sẽ ngắn hơn.

B. Các hàm thư viện được viết một lần và sử dụng nhiều lần.

C. Chương trình sẵn sàng, dễ hiểu hơn.

D. Chương trình sẽ chạy nhanh hơn.

Ta Kan Rin
Xem chi tiết
Vũ Minh Tuấn
9 tháng 12 2019 lúc 20:40

a)

Cách sử dụng:

-Phân hữu cơ và phân lân thường dùng để bón lót: thành phần có nhiều chất dinh dưỡng. Các chất dinh dưỡng thường ở dạng khó tiêu, cây không sử dụng được ngay, phải có thời gian để phân bón phân hủy thành các chất hòa tan cây mới sử dụng được.

-Phân đạm, kali và phân hỗn hợp thường dùng để bón thúc: có tỉ lệ dinh dưỡng cao, dễ hòa tan nên cây sử dụng được ngay.

b)

Đặc điểm:
a) Phân hóa học
- Chứa ít nguyên tố dinh dưỡng nhưng tỉ lê chất dinh dưỡng cao.
- Dễ tan, dễ hấp thụ, hiệu quả nhanh.
- Bón nhiều, liên tục làm đất hoá chua.
- Bón thúc là chính, phân lân có thể bón lót.

b) Phân hữu cơ
- Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng nhưng thành phần và tỉ lệ không ổn định.
- Cần có quá trình khoáng hoá mới sử dụng được hiệu quả chậm.
- Không làm hại đất, ủ hoai mục.

c) Phân vi sinh vật
- Chứa vi sinh vât sống, thời hạn sử dụng ngắn.
- Mỗi loại chỉ thích hợp với 1 loại cây trồng.
- Không hại đất.
- Tẩm, trôn vào hạt, rễ cây trước khi trồng.

Chúc bạn học tốt!

Khách vãng lai đã xóa
khanh vo
Xem chi tiết
hoàng linh lê
9 tháng 11 2023 lúc 20:30

D : tất cả các phương án

 

datcoder
9 tháng 11 2023 lúc 21:06

Câu 17. Để dễ dàng tìm kiếm dữ liệu, chúng ta cần phải làm gì?

A. Tổ chức lưu trữ, sắp xếp dữ liệu theo cấu trúc cây thư mục hợp lý, khoa học

B. Đặt tên tệp, tên thư mục ngắn gọn

C. Đặt tên tệp phù hợp với nội dung tệp, thư mục

D. Tất cả các phương án trên

Hoàng Ngọc Hoàng
13 tháng 11 2023 lúc 20:45

 : tất cả các phương á

Nhân Lê
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
10 tháng 1 2022 lúc 19:00

C

ʚLittle Wolfɞ‏
10 tháng 1 2022 lúc 19:05

C

Ngọc anh
Xem chi tiết
Huỳnh Kim Ngân
25 tháng 4 2022 lúc 21:00

bạn tham khảo nha

 

Tiếng Anh 

Hung King’s Festival - Bài viết số 5
Hung King’s Festival is one of the the greatest national festivals in Vietnam. It is held each year from the 8th to the 11th days of the third lunar month in honour of the Hùng Kings and their role in shaping the nation.. Like other festivals in the northern part of Viet Nam, this festival includes two parts: the incense-offering ceremony and the recreational activities. Additional festivities include music, rice cooking competitions and dragon dancing. Food also plays an essential role in the customs taking place during Hung King’s Festival because it is a symbolic sacrificial offering to the Hung Kings. People bring traditional dishes such as banh giay (crushed sticky rice pudding), and banh chung (sticky rice cake). In conclusion, the festival has become a symbol of the strength of national unity, one connection between past and present.

Tiếng Việt

Giỗ tổ Hùng Vương là một trong những lễ hội quốc gia lớn nhất ở Việt Nam. Lễ hội được tổ chức hàng năm từ mùng 8 đến 11 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của các Vua Hùng có vai trò tạo dựng dân tộc .. Cũng như các lễ hội khác ở miền Bắc Việt Nam, lễ hội này bao gồm hai phần: lễ dâng hương và các hoạt động vui chơi giải trí. Các hoạt động lễ hội bao gồm ca hát, thi nấu cơm và múa rồng. Ẩm thực cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong các phong tục diễn ra trong Lễ hội Vua Hùng vì đây là vật phẩm để dâng lên các Vua Hùng. Người dân mang đến những món ăn truyền thống như bánh giầy (bánh dẻo), bánh chưng (bánh giầy). Tóm lại, lễ hội này đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết dân tộc, một sợi dây kết nối giữa quá khứ và hiện tại.

chúc bạn học tốt nha

Vũ Tuấn Hưng
Xem chi tiết
mạnh cường
25 tháng 2 2022 lúc 13:20

B :V

⳽Ꚕιŋɛƙα❀
25 tháng 2 2022 lúc 13:31

B nhé

Nguyễn Tân Vương
25 tháng 2 2022 lúc 19:10

\(\text{B.Sử dụng cách diễn đạt ngắn gọn,cô đúc.}\)

@Nk>↑@
Xem chi tiết
Thảo Phương
19 tháng 10 2018 lúc 10:21

Vladimir Ilyich Lenin (22 tháng 4 năm 1870 - 21 tháng 1 năm 1924) là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818-1883) và Friedrick Engels.

Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nhà nước Xô Viết.

Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, Moskva.

Thảo Phương
19 tháng 10 2018 lúc 10:35

Lenin sinh tại Simbirsk, Nga (hiện là Ulyanovsk), là con trai của vợ chồng Ilya Nikolaevich Ulyanov (1831–1886), một quan chức dân sự Nga làm việc để mở rộng dân chủ và giáo dục đại chúng miễn phí ở Nga, và Maria Alexandrovna Ulyanova (1835–1916)..

Tháng 5 năm 1887 anh cả của ông Aleksandr Ilyich Ulyanov bị treo cổ vì tham gia vào một âm mưu ám sát Sa hoàng Aleksandr III. Việc này đã làm Lenin trở thành người cấp tiến.

Năm 24 tuổi, Lenin vào Đảng Xã hội dân chủ Nga. Từ đó, Lenin trở thành người tổ chức, lãnh đạo cách mạng. Năm 1905, Lenin tham gia lãnh đạo cách mạng tư sản dân chủ Nga đầu tiên. Năm 1917, Lenin lãnh đạo cách mạng Tháng Mười Nga thành công.Ông còn là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 - 1883) và Friedrich Engels.

Năm 1919, Lenin cùng các lãnh tụ cách mạng các nước lập nên Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba), để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò vĩ đại của Lenin: “Lenin là người đã thực hiện và phát triển chủ nghĩa Marx - Engels. Là người cha của cách mạng vô sản và cách mạng dân tộc giải phóng. Là người thầy đã đào tạo ra những chiến sĩ cách mạng khắp thế giới, chẳng những bằng lý luận cách mạng khoa học nhất, mà còn bằng đạo đức cách mạng cao cả nhất”.

V. I. Lenin được vinh danh là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới.

Trần Diệu Linh
19 tháng 10 2018 lúc 11:39
Vladimir Ilyich Lenin, tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov, còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Wikipedia Sinh: 22 tháng 4, 1870, Ulyanovsk, Nga Mất: 21 tháng 1, 1924, Gorki Leninskiye, Nga Tên đầy đủ: Vladimir Ilyich Ulyanov Vợ/chồng: Nadezhda Krupskaya (kết hôn 1898–1924) Quốc tịch: Liên Xô, Đế quốc Nga, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga
Xem chi tiết
๖ۣۜHả๖ۣۜI
28 tháng 12 2021 lúc 18:52

A

 

 

S - Sakura Vietnam
28 tháng 12 2021 lúc 18:53

 Vì sao các khu phố cổ thường bắt đầu bằng “hàng”?

A.   Tạo nên sự thống nhất cho các phố trong khu phố cổ.

B.   Cho dễ nhớ, dễ nhận biết đó là phố cổ.

C.   Trước kia phố đó bán gì thì lấy luôn tên gọi để đặt cho nơi đó.

D.   Mỗi phố có một hàng chuyên bán đồ dùng đúng như tên gọi.

Lê Phương Mai
28 tháng 12 2021 lúc 18:53

9,A

 

tiểu anh anh
Xem chi tiết
Thế Diện Vũ
30 tháng 3 2019 lúc 21:48
​ TÌM HIỂU GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHONG KI\(ẾN\) 1. Giáo dục Việt nam dưới chế độ phong kiến
1.1. Bối cảnh lịch sử Năm 257 (TCN), Thục Phán đã thống nhất các bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, x­ưng là An Dương Vương. Năm 179 (TCN), Triệu Đà thôn tính nư­ớc Âu Lạc và thiết lập chế độ cai trị của đế chế phư­ơng Bắc. Trải qua hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa lớn: khởi nghĩa Hai Bà Tr­ưng (40 - 43), Bà Triệu (248), Lý Bí (542), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766 -791), Khúc Thừa Dụ (905), Dương Đình Nghệ (931)... Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, giành quyền độc lập tự chủ cho dân tộc, mở đầu thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
Năm 965, xảy ra “Loạn 12 xứ quân”. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ quân, lập ra n¬ước Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Vào cuối triều Đinh, quân Tống xâm lược nước ta, triều thần đã tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua; đánh tan quân Tống xâm lược vào năm 981.
Năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh mất (triều Tiền Lê kết thúc), Lý Công Uẩn lên ngôi vua, năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư¬ ra Thăng Long.
Ba triều đại Lý - Trần - Hồ, gắn liền với các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh. Triều Lý thực hiện cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077). Triều Trần ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (1258; 1285 và 1288). Triều Hồ thực hiện cuộc kháng chiến chống Minh (1406 - 1407).
Những năm cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam dần dần suy yếu. Năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu đã phế truất nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Họ Mạc chiếm vùng Bắc Bộ, gọi là Bắc Triều. Nhà Lê (Lê Trung Hưng), chiếm vùng Thanh Hoá trở vào, gọi là Nam Triều. Cuộc xung đột Nam - Bắc triều kéo dài gần nửa thế kỷ (1545 - 1592), ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống nhân dân, trong đó có giáo dục.
1.2. Đặc điểm về giáo dục
* Mục tiêu giáo dục:
Đào tạo con em quan lại thành người Quân tử, kẻ sĩ.
* Nội dung giáo dục chủ yếu là nho giáo,
Đặc trưng nổi bật của giáo dục Việt Nam thời Phong kiến là nền giáo dục Nho học. Thời kỳ đầu dựng nước, bên cạnh giáo dục nho học có sự tồn tại của các loại hình giáo dục Phật giáo và Đạo giáo. Tuy có sự khác nhau nhưng các loại hình giáo dục trên không bài trừ lẫn nhau. Tâm giáo thịnh vượng nhất là thời Lý - Trần, triều đình nhiều lần đứng ra tổ chức kỳ thi Tam giáo bao gồm cả 3 nội dung Nho - Phật - Đạo. Tuy nhiên, các triều đại Phong kiến nối tiếp nhau luôn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Vì thế, Nho giáo gần như trở thành hệ thống giáo dục chính thống và tồn tại trong suốt thời kỳ Phong kiến.
- Sách giáo khoa chính của Nho giáo ở bậc cao là Tứ thư, Ngũ kinh và Bắc sử.
* Phương pháp giáo dục: Trí dục và đức dục.
- Trí dục: Chủ yếu phương pháp thuộc lòng, dùi mài kinh sử, Kinh viện, giáo điều.
- Đức dục: Chủ yếu sử dụng phương pháp nêu gương (Thân giáo trọng ư ngôn giáo – Nguyễn Trãi)
* Tổ chức trường lớp và thi cử: Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công và tứ phối (Mạnh tử, Tăng Tử, Tử Tư¬, Nhan Uyên ).
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử Giám, làm nơi dạy học cho các hoàng tử .
Thời Lý, việc tổ chức khoa cử ngày càng nền nếp. Năm 1075, Lý Nhân Tông cho mở khoa thi đầu tiên, lấy tên là Minh kinh bác học (các kỳ tiếp theo được tổ chức vào các năm 1086, 1186, 1195,…).
Thời Trần, năm 1236, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện, dần dần mở rộng cho con em các đại quan vào học.
Năm 1253, Trần Thái Tông xuống chiếu cho các nho sĩ trong nư¬ớc, những người thông kinh sử đư¬ợc đến Quốc Tử Viện học tập.
Tổ chức khoa cử đi vào quy củ, nền nếp hơn trư¬ớc. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinh.
Năm 1247, Trần Thái Tông đặt ra định chế tam khôi: (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa - 3 người có kết quả cao nhất trong cuộc thi đình).
Thời Hồ, Năm 1404, Hồ Hán Thư¬ơng định cách thi cử nhân. Do tồn tại trong thời gian quá ngắn nên triều Hồ chỉ tổ chức đ¬ược 2 khoa thi, như-ng đã đào tạo được nhiều danh nho, danh thần nổi tiếng (Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên).
Nhìn chung, dưới các thời Lý - Trần - Hồ, hệ thống trường học được tổ chức từ bậc Ấu học đến bậc Đại học. Tuy có sự phát triển, tiến bộ so với các thời kỳ trước, song sự phát triển còn chậm, số trường học do nhà nước mở còn ít, chỉ có ở kinh đô và một số phủ, châu. Việc học tập ở địa phương, hầu như do dân tự lo liệu, chủ yếu là do nhà chùa và các nho sĩ mở.
Dưới các triều Mạc - Lê, Trịnh - Nguyễn, việc học và thi tiếp tục được duy trì. Song, cùng với bước đường suy tàn của chế độ phong kiến, nền giáo dục nước ta có nhiều bước thụt lùi về chất lượng.
Nhiều giá trị hầu như bị đảo lộn, các sĩ tử theo lối học chạy theo danh lợi, xa rời chính học.
Tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho học vẫn được các triều đại phong kiến ở cả 2 miền Nam Bắc duy trì. Song trên bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung giáo dục và chế độ thi cử ngày một suy giảm về chất lượng, chỉ còn bề nổi, không còn chiều sâu; tình trạng này nằm trong sự suy tàn chung của ý thức hệ Nho giáo.
3. Ưu và nhược điểm giáo dục Việt Nam thời Phong kiến:
* Ưu điểm:
Các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với việc chăm lo phát triển các mặt kinh tế, xã hội cũng đã chú trọng tới việc phát triển giáo dục. VD: thế kỷ XV - XVI, các phủ, lộ đều có trường công,...
Đã phát triển nhiều trường tư để dạy con em của nhân dân với mong muốn cho con em của nhân dân đi học vài chữ để làm người; phát triển giáo dục gia đình.
Nền giáo dục Việt Nam thời Phong kiến từng bước được mở rộng và chính quy nhưng vẫn chưa phải là nên giáo dục giành cho mọi người; chỉ có con em của những người giàu, quý tộc mới được đi thi (thi là để làm quan); con em nhà nông cơ bản không được đi thi.
Tính độc lập, tự chủ, ý thức tự lực, tự cường trong giáo dục, nó đã góp phần to lớn trong việc gìn giữ đất nước, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Giáo dục Việt Nam thời Phong kiến để lại cho chúng ta nhiều bài học quý trong việc tổ chức nền giáo dục hiện nay. Bài học về tổ chức giáo dục (giáo dục nhà trường, giáo dục trong gia đình, ở trường công, trường tư,…).
Bài học về tổ chức thi cử, về bổ nhiệm người tài,..
Chế độ khoa cử là một trong những đặc trưng cơ bản của hệ thống giáo dục phong kiến. Thông qua chế độ khoa cử để chọn người hiền tài đảm nhiệm các chức vụ quan lại thực hiện chức năng quản lý bộ máy nhà nước phong kiến. Còn đối với nhân dân, thi cử là con đường tiến thân lập nghiệp, vì vậy được nhân dân hết sức coi trọng.
* Hạn chế:
Mục đích của nền giáo dục Phong kiến không nhằm vào những con người làm khoa học, lao động sản xuất để phát triển xã hội mà đào tạo những con mọt sách, những đồ đệ phục vụ tầng lớp phong kiến: quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử,
Nội dung giáo dục nghèo nàn, nặng về văn chương; nội dung về lao động sản xuất, khoa học kỹ thuật hầu như không có. (Do ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, mà Khổng Tử thì không quan tâm đến lao động sản xuất).
Phương pháp giáo dục giáo điều, uy quyền, nặng về học cổ, ít quan tâm phát triển xã hội.
Tổ chức bất bình đẳng trong giáo dục: trọng nam kinh nữ, con em tầng lớp quý tộc mới được đi thi, không phải mọi người đều có cơ hội đi học.
Triều đình chỉ lo giáo dục cho con em vua chúa và quan lại ở Kinh đô còn ở những nơi khác phải mời thầy đồ về giảng dạy.
Tài liệu học tập hết sức hạn chế, chỉ có 2 loại: Do Trung Quốc biên soạn là tứ thư, ngũ kinh và 1 loại do người Nam soạn.
Tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt nhưng nội dung thi rất khập khiễng, các đề thi chủ yếu ca tụng vua chúa, ca ngợi triều đình, ca ngợi nho giáo. Thời gian thi qua các kỳ kéo dài, ngắn: có kỳ 3 năm, có kỳ 10 năm.
Tóm lại, dù có những hạn chế nhất định nhưng nền giáo dục thời Phong kiến đặc biệt là những lúc đỉnh cao, đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước nhà; thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp nguyên khí cho quốc gia trong những giai đoạn phát triển của lịch sử giáo dục dân tộc. Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong tổ chức giáo dục hiện nay.