Những câu hỏi liên quan
Quynh Truong
Xem chi tiết
Nguyễn Khánh Linh
8 tháng 4 2022 lúc 18:36

Tham khảo:

Nhắc đến văn học Việt Nam, ngay cả bạn bè quốc tế, không ai không biết đến "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du. 3245 câu thơ lục bát, mỗi câu đều thấm vào lòng người, rung động cả thời gian. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.

Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, trai tài gái sắc đem lòng cảm mến. Một đêm trăng thanh đã định ra lời thề nguyền. Song Kim Trọng phải về quê chịu tang chú ruột. Biến cố cũng bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều. Để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh. Vì làm tròn chữ hiếu, nàng đành phải từ bỏ mối tình tốt đẹp với Kim Trọng. Lời thề nguyền trước đó không bao lâu, Kiều không thể thực hiện được. Vào đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa tình cho Kim Trọng.

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Trong gia đình Vương ông, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Kiều vốn có vai vế cao hơn so với Thúy Vân. Nhưng khi trao duyên, từ hành động đến cử chỉ, Thúy Kiều đều tự hạ mình để khẩn cầu em. Những từ ngữ “cậy”, “chịu” trong lời nói và hành động “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên vô cùng tha thiết. Không khí cuộc trò chuyện từ đó cũng trở nên nghiêm túc, thiêng liêng hơn. Không phải "nhờ" mà là "cậy". "Cậy" vừa mang theo sự khẩn cầu thiết tha vừa vô hình tạo ra sức nặng. Dù muốn em thay mình nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Song Thúy Kiều vẫn hiểu rằng như thế là bất công với Thúy Vân. Những lời nói và hành động trái với vai vế lễ nghi, chứa đầy sự trang trọng do vậy mới xuất hiện.

Là chị, nhưng Kiều không đứng ở vị trí của người chị mà dùng tư thế của người chịu ơn để nói với Thúy Vân. Lời nhờ cậy ngỏ ra vẫn còn dè dặt, không bắt ép mà "mặc em" quyết định. Tình yêu với Kim Trọng không phải mờ nhạt thoáng qua mà là khắc cốt ghi tâm. Từ bỏ, Kiều phải chịu đựng nỗi đau tan nát cõi lòng. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh ấy, cách ứng xử của Kiều vẫn thể hiện sự sắc sảo, thông minh khôn khéo và tế nhị.

Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã nói về cảnh ngộ bắt buộc của mình và mối tình dang dở với chàng Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

"Quạt ước” và “chén thề” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng gợi nhắc những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ với chàng Kim. Đồng thời cũng như một lưỡi dao sắc, gợi bao đau đớn, xót xa của hiện thực. Tình yêu đôi lứa bị chia cắt, dang dở.

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”

Trong sâu thẳm tâm hồn người con gái tài sắc vẹn toàn là những tâm sự và nỗi đau khắc cốt ghi tâm. Từng câu từng chữ đều thăm thẳm đớn đau xé lòng. Kiều mong Thúy Vân thấu hiểu và đồng ý lời thỉnh cầu của mình. Thậm chí, Thúy Kiều nhắc đến cả tình thân ruột thịt và cái chết. Nguyện ước trao duyên quả thật tha thiết, xót xa khôn cùng. "Thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” đều là những lí lẽ thuyết phục khiến Thúy Vân không thể chối từ. Ngoài ra cũng như mang theo mà dự cảm không lành của nàng về tương lai, số phận bi kịch nhiều sóng gió.

Sau khi thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo, thấu tình đạt lí, Thúy Kiều đã trao lại cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng, hoàn tất nghi thức trao duyên:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

 

Tất cả những kỉ vật như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” đều là minh chứng cho một đoạn tình cảm sâu nặng, minh chứng cho một mối tình đẹp đẽ mang tên Kim – Kiều. Dù dang dở, dù thuộc về quá khứ, nó vẫn vô cùng thiêng liêng với Kiều, trao lại cho em, lòng nàng không thể nén được nỗi xót xa, không nỡ. Đây chính là thời điểm lí trí và tình cảm của nàng xảy ra mâu thuẫn.

Hai từ “của chung” thể hiện sự lúng túng, ngập ngừng, cho thấy tâm trạng của Kiều khi trao lại kỉ vật cho em. Lí trí thì mách bảo dứt khoát trao đi nhưng tình cảm thì lại không thể. Nếu như trước đó, Kiều tỏ ra đầy dứt khoát, khôn khéo trong lời nói. Thì đến đây, câu từ đều thấm đượm sự tiếc nuối, xót xa. Từng lời nói như nghẹn lại, trực trào nức nở, mang nặng nỗi đau xé ruột xé gan của người con gái lần đầu rung động trước những ngang trái cuộc đời.

"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan"

Kiều dường như có dự cảm về cuộc đời mình và cái chết. Nàng tự nhận mình bạc mệnh, nghĩ đến cả tình cảnh mình chết đi. Dù phải đến một thế giới khác, dù không thể trở lại cuộc sống bình thường và số phận mong manh. Kiều vẫn không hề thanh thản mà còn nặng lòng hơn với tình duyên, canh cánh vẫy vùng trong sự bất lực thác oan, đau đớn.

Chấp nhận trao duyên cũng là chấp nhận từ bỏ đoạn tình cảm tốt đẹp này, cắt đứt mối liên hệ với chàng Kim. Vậy nên, khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, linh hồn của nàng dường như cũng đánh mất. Nỗi đau đớn bấy giờ không kìm nén nỗi mà trào dâng trong tâm trí bế tắc, túng quẫn:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Dù do tình cảnh ép buộc, dù do sóng gió tai ương bất ngờ ập đến. Nàng vẫn cảm thấy mình là người có lỗi, mình là người đã cô phục chàng Kim. Tiếng gọi Kim Trọng cất lên tha thiết và nghẹn ngào. Cả đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Mọi bi kịch, mọi khổ đau và tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dường như đã lên đến đỉnh điểm. Song, chúng ta vẫn nghe thấy trong đó cả tiếng lòng cảm thông của tác giả và sự trân trọng cô gái trọng nghĩa tình.

"Trao duyên" là bức tranh tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ muôn vàn xót xa của Thúy Kiều. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Đồng thời, đại thi hào Nguyễn Du cũng thể hiện được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy. Không chỉ là tấm lòng đồng cảm xót thương, Nguyễn Du còn dường như hóa thân thành nhân vật để tự trải lòng. Nội tâm Thúy Kiều nhờ đó được tái hiện vô cùng toàn diện. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.

Có thể nói, đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ lục bát và các biện pháp tu từ. Đặc biệt qua các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn dằn vặt của Kiều khi trao duyên. Từ đó làm nổi bật hình ảnh người con gái trọng tình trọng nghĩa. Đoạn trích không chỉ làm nổi bật tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Mà còn thể hiện cả tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương và sự cảm thông của Nguyễn Du dành cho nhân vật.

Đoạn trích "Trao duyên" với những giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy thực sự đã mang đến cho chúng ta cái nhìn chân thực hơn về thời đại. Thời đại đồng tiền có thể chà đạp số phận con người, băng hoại đạo đức và đầy rẫy bất công. Để rồi rất nhiều năm qua đi, người ta vẫn nhớ mãi tác phẩm mang đầy giá trị nhân đạo "Truyện Kiều".

Khánh Linh
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Anh Trần
14 tháng 3 2022 lúc 19:35

“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông”

Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chúng ta ai cũng ẩn sâu cho mình hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi luôn chan chứa tình yêu thương. Có lẽ cảm xúc về quê hương là những cảm xúc cao đẹp nhất. Và thoáng chút bâng khuâng khi chiều nay tiết văn cô giáo vừa giảng bài “Quê hương” của Tế Hanh – quê hương của tác giả thật đẹp, thật bình dị!
Tế Hanh sinh ra ở một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, cả tuổi thơ của ông gắn liền với nắng gió, với hơi thở của biển. Có lẽ hồn biển đã thấm sâu vào tim để rồi làm nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Tế Hanh viết nên những vần thơ về quê hương, về những con người miền biển chân chất, thật thà.

 

“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”

Hai câu mở đầu như gợi lên hình ảnh một làng chài nhỏ nằm ngay sát biển. Họ mưu sinh bằng nghề đánh bắt, bằng những chuyến tàu đi về hằng ngày trên biển. Cụm từ “Làng tôi” như một tiếng gọi thân thương trìu mến của một người con xa quê bỗng cất lên nỗi nhớ da diết. Câu thơ ngắn gọn nhưng gợi tả được bức tranh về một làng chài ven biển bình dị, thân quen…
Ở nơi đó có những con người sinh ra từ biển, lớn lên từ biển. Mỗi sớm mai thức dậy, khi bầu trời trong xanh, biển im ắng họ lại “bơi thuyền đi đánh cá”. Những chàng trai làm nghề của biển họ mạnh mẽ, họ khỏe khoắn với “làn da ngăm rám nắng” ngày ngày đối mặt với sóng to gió lớn, lênh đênh hàng tháng liền trên biển mênh mông:

“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”

Những bài Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh tuyển chọn

Họ trở về từ biển, họ mang hơi thở của biển. “Vị xa xăm” – không chỉ là vị của biển mà còn là hương vị của những vùng đất họ đã đi qua, là vị mặn của những giọt mồ hôi, của tình yêu quê hương. Người ta nói, dân biển họ đậm tình đậm nghĩa lắm, đậm như chính nơi biển lớn họ sinh ra. Dù đi đâu lòng họ vẫn hướng về quê hương, về nơi xóm chài nghèo e ấp khi bão về…
Cuộc sống của những con người vùng biển quanh năm gắn liền với những con thuyền mộc mạc. Có những gia đình gần như sinh sống trên không gian nhỏ bé của thuyền. Chiếc thuyền là nơi sinh hoạt, là mưu sinh, là sự sống của họ. Trong kí ức của Tế Hanh những chiếc thuyền như chính linh hồn làng, con thuyền trong thơ ông hiện lên như một dũng sĩ xông pha nơi chiến trường:

“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

 Tác giả đã so sánh hình ảnh chiếc thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh. Động từ mạnh được sử dụng liên tục như càng tô đậm hơn sự dũng mãnh của chiếc thuyền chài “phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang” – ta tưởng như con thuyền rẽ mọi con sóng, vượt mọi ngọn gió, oai hùng tiến về phía trước không một chút nao núng. Con thuyền ấy sở dĩ hiên ngang như vậy bởi được bao bọc bởi cánh buồm trắng – cánh buồm như mang theo cả hồn của làng chài nghèo, của những người thân đang ngóng trông họ nơi quê nhà. Một cánh buồm đơn sơ được Tế Hanh thổi hồn nay bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Mỗi ngày trên biển, nhìn cánh buồm tung bay trong gió những người dân chài như thấy thấp thoáng hình bóng quê hương, thấp thoáng bóng người vợ, người mẹ già ngày đêm đứng chờ ở bãi biển…
 Hàng tháng trời ở biển, đâu chỉ con người biết mỏi biết mệt, những chiếc thuyền cũng thấm mệt, lui dần về bến, lim dim ngủ:

“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”

 Tế Hanh đã tinh tế khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong hai câu thơ trên. Nếu từ “nghe” là từ chỉ hoạt động của thính giác thì “thấm” là cảm nhận của xúc giác. Bằng nghệ thuật ấy, tác giả đã vẽ nên hình ảnh chiếc thuyền trở về nằm im mệt mỏi nhưng dường như từng “thớ vỏ” bên trong. Con thuyền nằm đó, im lặng nhưng vẫn dạt dào nguồn sống. Ta dường như thấy được nhà thơ đang hóa thân vào hình ảnh con thuyền để bày tỏ nỗi lòng, để lặng ngắm không khí vui tươi ngày trở về…

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”

 Đối với những con người làm nghề đi biển, họ mong lắm ngày được trở về. Những người mẹ, người vợ càng háo hức mong đợi nhiều hơn. Ấy thế nên khi ghe vừa đến bến cả mỗi vùng xôn xao náo nhiệt. “Ồn ào” , “tấp nập” – những từ láy gợi tả khung cảnh đông vui, náo nức được nhà thơ sử dụng như càng làm bừng lên không khí vui mừng nơi xóm nghèo. Họ nô nức đón ghe về, họ vui mừng khi “cá đầy ghe”. Những con người chân chất ấy họ sung sướng nhưng vẫn không quên gửi lời cảm ơn chân thành đến thần linh – “nhờ ơn trời biển lặng”… đã mang những con thuyền chở người thân của họ trở về trong bình yên.
 Tất cả những hình ảnh trên chỉ còn lại trong kí ức của tác giả bởi ông đang ở nơi xa, đang từng ngày mong nhớ quê hương nơi đất khách:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi,
Thoáng con thuyền sẽ sóng chạy ra khơi”

 Mọi thứ dường như đã rất quen thuộc, dường như đã ăn sâu nơi tiềm thức của nhà thơ. Bài thơ da diết, sâu lắng tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của những người làng chài sao mà chân thật, sống sộng đến thế? Phải chăng đây chính là nỗi niềm từ chính tâm tư của những con người xa quê… Để rồi Tế Hanh đã phải thốt lên:
“Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
 Vâng, dù đi đâu, đi thật nhiều nơi nhưng cái hương vị quê nhà, mùi của đất, của biển, của tình người vẫn mãi thấm đượm trong tác giả. Là cả một ước mong ngày trở về…Vần thơ bình dị mà gợi cảm, hình ảnh đơn giản mà sâu sắc, giọng văn nghẹn ngào cảm xúc – “Quê hương” như môt khúc nhạc nhớ thương quê hương trong sáng, da diết của nhà thơ! Quê hương – hai tiếng ấy sao mà thân thương! Mỗi lần thốt lên hay nghĩ về đều rất thiêng liêng:

“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”
đào đức hưng
Xem chi tiết
Lan Phương
Xem chi tiết
Lương thu Thảo
Xem chi tiết
Phạm Thanh Hà
19 tháng 4 2022 lúc 20:09

Qua bài thơ Ngắm trăng, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Bác một cách thật sâu sắc. Trong điều kiện thiếu thốn của nhà tù, việc ngắm trăng của Bác cũng thành bữa tiệc thiếu thốn rất nhiều những quy chuẩn của việc chơi trăng, ngắm trăng vốn có. Bác lặng lẽ, say mê ngắm ánh trăng sáng ngoài cửa sổ. Bốn bức tường giam chật hẹp không ngăn được cảm xúc mênh mông, Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó khát vọng tự do khôn cùng của mình. Thể xác bị giam cầm nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng với thiên nhiên. Điều đó được lí giải bởi tình yêu của Bác đối với thiên nhiên và còn bởi một tinh thần “thép” không bị khuất phục bởi cái xấu, cái ác. Trăng trong sáng, lòng người cũng trong sáng nên giữa trăng và người đã có sự giao hòa tuyệt vời:Trong hoàn cảnh ấy, con người thường chỉ quay quắt với cái đói, cái đau và sự hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, Người lại hướng đến ánh trăng trong sáng, dịu hiền. Có thể thấy được phong thái ung dung của Bác trong cảnh đọa đầy, phong thái này không phải dễ có được, phải là người có chí hướng lớn, luôn lạc quan mới có thể giữ cho mình tấm lòng thanh thuần kể cả trong chốn lao tù như thế.

•Thúy•
Xem chi tiết
Châuu
Xem chi tiết
mai phương lê
Xem chi tiết
Sad boy
24 tháng 7 2021 lúc 18:37

BN THAM KHẢO

 Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đã biết bao đêm Bác không ngủ, Bác không ngủ vì trong lòng Bác còn nhiều điều trăn trở, lo việc nước, lo cho bộ đội, dân công và lo cho sự ấm êm hạnh phúc của đồng bào. Bởi là Bác nên nỗi lo ấy là thường tình, những đêm không ngủ ấy là lẽ tất nhiên, bơi chỉ có Bác mới dành trọn cả đời hi sinh vì nước, vì dân mà không màng đến bản thân mình.Cái “lẽ thường tình” mà Minh Huệ nói đến vừa đơn giản lại vừa thiêng liêng, đó chính là vì “Bác là Hồ Chí Minh”, là một vị lãnh tụ gần dân, lo cho dân và vì nhân dân. Bác là người còn lo trăm công nghìn việc to lớn của đất nước, lo cho kế hoạch tác chiến và đường đi nước bước của kháng chiến, hành trình chiến dịch khó khăn Bác cũng đã xông pha và nếm trải cùng chiến sĩ. Thế nhưng đêm đến Bác không nghỉ và không ngủ, nỗi lo còn đau đáu trong lòng Bác, làm sao Bác yên lòng khi việc nước chưa yên, dân và quân còn đang chịu khổ, chịu lạnh ngoài rừng. Trong đêm đông mưa lạnh, gió rét, Bác ngồi đốt bếp lửa sưởi ấm cho chiến sĩ, đi dém chăn cho từng người một và nhón chân nhẹ nhàng để không ai bị giật mình thức giấc. Tình yêu thương và tấm lòng ân cần, hi sinh của Bác như một người cho già  khiến  không gì sánh nổi . chẳng ngọn lửa nào ấm hơn tình thương của Bác.Cái lẽ thường tình cũng chính là lẽ sống của Bác, Bác dành trọn vẹn đời mình cho nhân dân và cách mạng Việt Nam. Khổ thơ cuối như một câu bình luận trữ tình về cái “lẽ thường tình” trong con người Hồ Chí Minh. Như vậy, với “cái lẽ thường tình” mà tác giả Minh Huệ đã nói đến trong bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ”, người đọc đã được thấm nhuần hơn nữa về tình yêu thương, lòng nhân ái, đạo đức và nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh.

câu sử dụng BPTT : so sánh : phần bôi đen

minh nguyet
24 tháng 7 2021 lúc 19:45

Tham khảo nha em:

Hình ảnh so sánh thứ nhất "Anh đội viên mơ màng/ Như nằm trong giấc mộng" để thể hiện việc anh đang đi vào giấc ngủ và gặp Bác trong mơ. Hình ảnh so sánh thứ hai là "Bóng Bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng" là tác giả đã so sánh bóng hình của Bác vĩ đại và có hơi ấm hơn ngọn lửa sưởi ấm cho nhân dân VN. So sánh bóng Bác ấm hơn ngọn lửa là tác giả đã muốn thể hiện tình yêu thương ấm áp của Bác dành cho nhân dân VN vĩ đại và bao la vô bờ. Nhân dân ta luôn coi Bác như người cha của mình.Nhờ có Bác soi đường chỉ lối mà Cách mạng VN mới có thể đi đến thắng lợi cuối cùng.

Câu chứa phép so sánh: In đậm nghiêng

Huyền Lê Thị Thu
Xem chi tiết