Những câu hỏi liên quan
Pikachuuuu
Xem chi tiết
Sunn
30 tháng 5 2021 lúc 11:27

THAM KHẢO

-Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều là:

- Nghệ thuật ước lệ, bút pháp lí tưởng hoá.

- Nghệ thuật gợi tả: tác giả sử dụng nhiều phép ẩn dụ, điển tích điển cố, thành ngữ để miêu tả vẻ đẹp của hai chị em.

- Nghệ thuật đòn bẩy: Nguyễn Du miêu tả Vân trước rồi Kiều sau để làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: Vân hiện lên với qua đẹp ngoại hình qua bốn câu thơ. Còn Kiều mang cả vẻ đẹp ngoại hình, tài năng phẩm chất và tâm hồn qua 12 câu thơ. ( dung lượng câu thơ lớn cùng nghệ thuật đòn bẩy cho thấy dụng công của Nguyễn Du nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều)

Bình luận (0)
Ngọc Trang
Xem chi tiết
minh nguyet
15 tháng 10 2021 lúc 22:04

Em tham khảo nhé:

Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:

* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.

- Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.

Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.
Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.
- Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.

- Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.

⇒ Nhận xét:

- Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.


 
- Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.

- Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.

* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh

- Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

- Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

- Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:

Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.
Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.
⇒ Nhận xét:

- Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.

- Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả

Bình luận (0)
19-Phạm Tuệ Minh Lớp 9/3
Xem chi tiết
nthv_.
15 tháng 10 2021 lúc 22:23

Tham khảo:

Nguyễn Du là đại thi hào của nền văn học Việt Nam, tên tuổi của ông gắn với "Truyện Kiều" - một tác phẩm truyện thơ Nôm nổi tiếng. Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" thuộc phần đầu của tác phẩm, qua đoạn trích Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc nghệ thuật tả người của mình. Ở đoạn trích này Nguyễn Du đã sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng để nói lên vẻ đẹp của hai chị em. "Khuôn trắng đầy đặn, nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang" qua hai câu thơ ta thấy Vân có vẻ đẹp trang trọng. Khuôn mặt của nàng đầy đặn như trăng rằm, đôi mày của nàng như nét ngài, miệng của nàng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo thánh thót như ngọc. Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả cũng hết sức độc đáo "Làn thu thủy, nét xuân sơn". Đôi mắt củ Thúy Kiều trong như làn nước mùa thu, đôi mày của nàng thì lại mềm mại như dáng núi mùa xuân. Bằng thủ pháp ước lệ, Nguyễn Du đã vẽ nên trước mắt người đọc hai cô gái xinh đẹp tuyệt trầ, cô thì dịu dàng trang trọng, cô lại sắc sảo mặn mà. Ngoài thủ pháp ước lệ, ở đoạn trích này Nguyễn Du còn sủ dụng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả mới nói đến vẻ đẹp của Kiều để thấy được Vân cũng đẹp nhưng Kiều lại còn đẹp hơn cả Vân. Với thủ pháp ước lệ tượng trưng và đòn bẩy, Nguyễn Du đã thể hiện tài năng tuyệt trác của mình trong việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.

Bình luận (0)
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
11 tháng 6 2018 lúc 7:59

a. Mở bài: Giới thiệu chung về đoạn trích (Đoạn thơ hay nhất biểu hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ độc thoại thể hiện nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều)

b. Thân bài:

* Tâm trạng của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:

- Đó là tâm trạng cô đơn buồn tủi, đau đớn xót xa

- Nàng nhớ đến Kim Trọng, thương chàng.

- Nàng thương cha mẹ già thiếu người chăm sóc.

- Nàng nghĩ về hiện tại của bản thân thì thấy buồn dâng lớp lớp như tâm trạng ngổn ngang trước một tương lai mờ mịt, bế tắc.

* Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du:

- Nhà thơ sử dụng ngoại cảnh để tả tâm cảnh.

- Vừa tạo ra sự đối lập Thiên nhiên rộng lớn – con người nhỏ bé cô đơn vừa tạo ra sự tuơng đồng : cảnh ngổn ngang – tâm trạng ngổn ngang, cảnh mờ mịt nhạt nhoà – tâm trạng u buồn, bế tắc.

- Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ, các từ láy tạo nên sự trùng điệp như nỗi lòng của Kiều đang “Lớp lớp sóng dồi”

c. Kết bài:

- Khẳng định nghệ thuật vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du.

- Xót thương số phận tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.

- Căm ghét xã hội phong kiến xấu xa, thối nát, tàn bạo.

Bình luận (0)
Hoàng Long
Xem chi tiết
phuong nguyen
11 tháng 10 2021 lúc 22:44

đổi avata rồi người ta trả lời

Bình luận (0)
trung kiên
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
15 tháng 7 2017 lúc 16:40

a. Mở bài.

Giới thiệu về nội dung- vị trí đoạn trích. Khái quát nghệ thuật miêu tả nhân vật phản diện độc đáo của tác giả.

b.Thân Bài.

* Giới thiệu: Màn kịch vấn danh.

- Trong lễ vấn danh Mã Giám Sinh xuất hiện là một sinh viên trường Quốc tử Giám đến hỏi Kiều làm vợ.

   + Giới thiệu: là người viễn khách – khách phương xa

   + Quê “Huyện lâm Thanh cũng gần. Họ tên không rõ ràng.

   + Tuổi ngoại tứ tuần.

   + Diện mạo: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao → chải chuốt, trai lơ.

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh. Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần → cộc lốc

   + Cử chỉ hành vi: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng → sỗ sàng, thô lỗ, kệch cỡm.

Tóm lại: Tác giả để nhân vật tự bộc lộ tính cách. Nhân vật Mã Giám Sinh đã phơi bày chân tướng – Một con buôn vô học.

* Màn mua bán. ( Dẫn chứng, Phân tích)

- Gặp Kiều: nhìn, ngắm, cân đo, xoay lên đặt xuống coi Kiều như một món hàng ngoài chợ, khi bằng lòng : mặc cả “cò kè” → bộc lộ rõ bản chất bỉ ổi, trắng trợn, ti tiện, bẩn thỉu

→ Hình thức là một lễ vấn danh nhưng thực chất lại là cuộc buôn thịt bán ng-ười, trắng trợn bỉ ổi. Từ việc mua bán đề cập tới một hiên thực: xã hội đồng tiền và một loại người xuất hiện ở đó đồng tiền có thế lực vạn năng nên việc mua bán con người dễ dàng như mua một món đồ ngoài chợ.

* Thúy Kiều với nỗi đau đầu đời.

- Tâm trạng đau khổ ê chề, nỗi đau khổ tột cùng nhưng vẫn không làm suy giảm vẻ trang đài của nàng.Thấy được sự cảm thông, lòng yêu thương sâu sắc của tác giả với số phận nhân vật của mình.( Dẫn chứng, Phân tich)

c. Kết bài.

- Bằng ngoại hình, hành động, cử chỉ, lời nói của nhân vật, đoạn trích khắc hoạ chân tướng Mã Giám sinh - Tên buôn thịt bán người giả dối đểu cáng, trơ trẽn qua nghệ thuật miêu tả nhân vật phản diện đặc sắc của tác giả. Đó cũng là tiếng nói cảm thông chia sẻ - Tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du với cuộc đời, với con người trong xã hội xưa.

Bình luận (0)
Hồ Trung Hợp
Xem chi tiết

Bài làm

Trong đoạn trích "Chị Em Thúy Kiều" củ Nguyễn Du, Kiều hiện là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Vẻ đẹp của Kiều được tác giả sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ "thu thủy", "xuân sơn", hoa, liễu để miêu tả mộ tuyệt thế giai nhân. Vẻ đẹp ấy được đặc tả qua đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó là một đôi mắt biết nói và có sức rung cảm lòng người. Hình ảnh ước lệ "làn thu thủy" là làn nước mùa thu gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh và linh hoạt. Còn "nét xuân sơn" có nghĩa là nét núi mùa xuân, tôn lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ dừng lại ở đó, câu thơ "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" cũng là hình ảnh làm nổi bật vẻ đẹp mĩ lệ của Kiều, vẻ đẹp hoàn mĩ và sắc sảo ấy có sức quyến rũ lạ lùng, khiến cho thiên nhiên không thể dễ dàng chịu thua, chịu nhường mà phải nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Đồng thời, qua chi tiết này, Nguyễn Du cũng ngầm báo hiệu số phận của Kiều sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Không chỉ mang một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Cái tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm, kì, thi họa. Đặc biệt nhất, tài đàn của nàng đã trở thành sở trường, năng khiếu vượt lên trên mọi người. Ở đây, tác giả đã đặc tả cái tài của Kiều để gợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn "bạc mệnh" mà Kiều tự sáng tác nghe thật da diết, buồn thương, nói lên tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, chỉ bằng mấy câu thơ trong đoạn trích, Nguyễn Du đã không chỉ miêu tả được vẻ đẹp hoàn mĩ và cái tài của Kiều mà còn dự báo trước được tương lai của nhân vật.

# Học tốt #

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa

Bài làm

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã bị hắn lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà, do kiên quyết không chấp nhận cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh, Tú Bà đã quyết định cho Thúy Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Thông qua câu thơ đầu tiên, ta có thể xác định được vị trí và điểm nhìn của nàng Kiều, đó chính là trước lầu Ngưng Bích, đứng trông ra núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn, mênh mông trái ngược hoàn toàn với lầu Ngưng Bích. “Khóa xuân” ở đây ta có thể hiểu đó là một không gian khép kín, nơi có thể buộc chặt tự do, khóa chặt tuổi xuân của nàng Kiều. Mở ra trước tầm mắt của Kiều là vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người “Bốn bề bát ngát xa trông”.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Từ khi sống ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn tự suy ngẫm, dằn vặt về bản thân cũng như đau khổ trước những biến cố đã xảy ra với bản thân mình, thường trực trong nàng là tâm trạng xấu hổ buồn tủi trước sự ô nhục mà bản thân đã trải qua, cùng với đó là nỗi nhớ nhung da diết với chàng Kim. Thúy Kiều nhớ về lời thề nguyền dưới ánh trăng năm nào. Khi quyết định phá vỡ lời thề, Thúy Kiều vẫn chưa có cơ hội gặp lại chàng Kim để nói lời từ biệt, do vậy mà nàng luôn đau đáu trong lòng sự day dứt, đau khổ khi nghĩ về chàng Kim vẫn không hề hay biết mà chờ đợi nàng trong vô vọng.

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy năng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Cùng với nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ hướng về cha mẹ. Thúy Kiều đau xót khi nghĩ về cha mẹ đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn tựa cửa đợi con “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng đau khổ khi không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, không thể thực hiện bổn phận, trách nhiệm của một người con, quạt cho cha mẹ khi trời nóng, hay sưởi ấm chăn cho cha mẹ khi trời trở lạnh. Hình ảnh Sân Lai là một điển tích trong văn học cổ Trung Quốc, nói về người con có hiểu là Lai Tử người nước Sở thời xuân thu, tuy đã già những vẫn còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ vui lòng. Mượn hình ảnh Lai Từ vừa thể hiện được sự day dứt của Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.

“Buồn trông ngọn nước mới xa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Dù trong hoàn cảnh đau khổ nhất, Thúy Kiều cũng nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Đau khổ với những nỗi nhớ để khi quay về với thực tại thì nàng lại xót xa nhận ra sự bẽ bàng, đau khổ của bản thân. Như Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như đồng cảm với tâm trạng của nàng Kiều, cảnh vật cũng thấm đượm sự u buồn, không những thế nó còn dự báo về tương lai đầy bão tố của nàng trước mắt. Đó là hình ảnh ngọn nước mới xa, hình ảnh cánh hoa nổi trôi, là ngọn cỏ rầu rầu, là màu xanh của chân mây nhưng lại không gợi ra được sự sống.

Như vậy, qua đoạn trích Kiều ở lầu NGưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.

# Học tốt #

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Nguyễn Dương
6 tháng 11 2019 lúc 20:52

Nguyễn Du là một trong những cây đại thụ của nền văn học dân tộc với nhiều áng văn bất hủ, nổi bật nhất trong số đó là kiệt tác "Truyện Kiều". Ra đời dựa trên cuốn tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, tuy nhiên, Nguyễn Du đã thổi một làn gió mới khiến cho một câu chuyện vốn tẻ nhạt trở nên hấp dẫn, sinh động và mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Trong số các nhân vật của mình, Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du khắc họa chân thực và sinh động nhất cả về vẻ đẹp lẫn tài năng. Qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" ta sẽ thấy rõ điều đó.

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm: "Gặp gỡ và đính ước". Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả là hai nàng "tố nga" - vừa thông minh lại xinh đẹp hiếm có trong thiên hạ. Hai chị em "mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười". Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã ngụ ý miêu tả vẻ đẹp của em gái Thúy Vân trước để làm đòn bẩy, làm nổi bật lên vẻ đẹp "phần hơn" của cô chị Thúy Kiều:

"Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn "

Nếu Thúy Vân được miêu tả là một cô gái "trang trọng khác vời" với "khuôn trăng đầy đặn" và "nét ngài nở nang" thì Thúy Kiều lại càng "sắc sảo mặn mà" hơn bội phần. Thúy Kiều có vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân, nghiêng nước nghiêng thành. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cầm, kỳ, thi, họa. Bởi vậy, so về "sắc" hay "tài" thì Kiều đều giỏi hơn Vân một phần. Câu thơ đầy ngụ ý, mở ra cho người đọc thấy được vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều.

Để làm nổi bật hình tượng nàng Kiều, đầu tiên, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp nhan sắc của nàng:

"Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng có hiệu quả trong việc khắc hoạ vẻ đẹp của Thuý Kiều. Khuôn mặt nàng là một khuôn mặt vô cùng thanh tú, được so sánh như làn nước mùa thu, như dáng núi mùa xuân. Nếu khi miêu tả nàng Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả từng chi tiết thì đến nàng Kiều, ông chỉ tập trung khắc họa đôi mắt xinh đẹp, biết nói của nàng. Đó là một đôi mắt xanh, biêng biếc như làn nước trong vắt của mùa thu cùng đôi lông mày thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy tuyệt đẹp, chất chứa bên trong là một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống. Nghệ thuật lấy điểm tả diện, tác giả chỉ cần đặc tả đôi mắt thôi cũng đủ để làm bật lên vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, trong sáng của cô tiểu thư đài các.

Chính vẻ đẹp vượt ra khỏi những nét đẹp chuẩn mực thông thường của người phụ nữ trong xã hội phong kiến của Kiều đã khiến cho "hoa ghen", "liễu hờn". Câu thơ như một lời dự báo của Nguyễn Du dành cho nàng. Có chăng, cuộc đời nàng Kiều sẽ gặp phải truân chuyên vì những kẻ mưu mô, hẹp hòi sẽ ghen, hờn với tài sắc "mười phân vẹn mười" của nàng? Nếu Thúy Vân có cuộc sống khiến vạn vật phải "thua", "nhường" thì Thúy Kiều lại trái ngược. Nó dự báo cho một cuộc đời đầy giông bão, trắc trở sắp ập đến với nàng.

Bằng đôi ba câu ngắn ngủi, Nguyễn Du đã dựng nên vẻ đẹp về ngoại hình của Kiều. Với nét vẽ của một người họa sĩ, ông đã vẽ lên bức họa chân dung nàng Kiều với vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt thế. Vẻ đẹp ấy hoàn mĩ như một bức tranh thuỷ mặc: Có núi, có trời, có sắc nước mùa thu.

Không chỉ trầm trồ bởi vẻ đẹp của nàng Kiều, người đọc lại càng ngưỡng mộ tài năng thiên bẩm của nàng:

"Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân"

Yêu thương Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả nàng bằng những mỹ từ. Nếu về sắc, nàng là số một thì về tài, không ai dám đứng thứ hai trước nàng. Nguyễn Du ca ngợi Thúy Kiều tột bậc, nàng là một trong số những mỹ nhân hiếm có trong thiên hạ, vừa có cả sắc, vừa có cả tài. Vốn sẵn tính thông minh, Thúy Kiều vừa "pha nghề thi họa" lại cũng "đủ mùi ca ngâm". Như vậy, cả bốn kỹ nghệ cầm - kỳ - thi - họa nàng đều thành thạo. Thế nhưng nổi bật nhất trong số đó là tài đánh đàn của nàng. Tiếng đàn ngân nga cất lên với "làu bậc ngũ âm" vô cùng thành thục và êm tai, thậm chí vượt xa những người con gái tài giỏi khác một bậc "ăn đứt hồ cầm một chương". Thử hỏi mấy ai trong thiên hạ có được tài đánh đàn khéo léo, uyển chuyển giống như nàng?

Tuy tài năng là vậy nhưng Nguyễn Du cũng ngầm dự báo số phận éo le của Kiều bởi bản nhạc mà nàng thường đánh là bản "Bạc mệnh" vô cùng "não nhân". Là một người con gái yêu kiều dịu dàng, thế nhưng nàng Kiều lại thường thích những bản nhạc u sầu, buồn bã. Điều đó như đã vận vào chính số mệnh của nàng. Bản bạc mệnh nàng đánh cho ai? Hay là đánh cho chính mình? Nàng không hề hay biết rằng, sắp tới nàng sẽ bước vào trang mới của cuộc đời cuộc đời với rất nhiều khổ đau và tủi nhục.

Như vậy, Nguyễn Du đã thành công phác họa bức chân dung của Thúy Kiều về cả sắc đẹp lẫn tài năng. Đó là một vẻ đẹp tuyệt mỹ khiến cho trời xanh đố kị, một tài năng vượt trội khiến cho ai cũng phải thán phục, trầm trồ. Thế nhưng, số phận nàng Kiều sẽ không thể tránh khỏi những truân chuyên như Nguyễn Du đã từng ca thán:

''Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.''

Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp con người, Nguyễn Du đã thành công khắc họa chân dung vẻ đẹp và tài năng của Kiều. Đặc biệt, tác giả sử dụng thành công thủ pháp đòn bẩy : Tả Thúy Vân trước để làm đòn bẩy nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Phải yêu thương nhân vật của mình thì ông mới có thể xây dựng được hình tượng nàng Kiều tuyệt đẹp, khiến bạn đọc phải trầm trồ đến vậy.

Đoạn thơ khép lại mang tới những dư âm sâu sắc trong lòng bạn đọc. Đó là dư âm về tài năng của Nguyễn Du, về ý nghĩa nhân sinh sâu sắc được chuyển tải trong những câu thơ. Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ là cảm hứng muôn đời, có ý nghĩa từ xa xưa cho đến hiện tại. Quả không sai khi người ta nhắc đến Nguyễn Du là "một tài năng lớn, một nhân cách lớn".

#Trang

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Ngan Nguyen
Xem chi tiết