Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Music Plus
Xem chi tiết
Cherry
30 tháng 3 2021 lúc 14:14

a) 8 câu thơ đầu - Không gian: + Hiên vắng: vắng vẻ, hiu quạnh + Khuê phòng: cô đơn, nhớ nhung - Thời gian: + Đèn: ban đêm, thời gian của tâm trạng + Hoa đèn: thời gian qua lâu gợi nỗi niềm khắc khoải - Hành động của người chinh phụ: + Dạo – gieo từng bước: đi đi lại lại, quanh quanh, quẩn quẩn ⇒ Nỗi nhớ như ngưng đọng trong từng bước đi + Rủ thác: hành động vô thức, không có chủ đich + Nghe ngóng tin tức: nhớ mong, khao khát người chồng trở về + Giãi bày, chia sẻ với ngọn đèn – vật vô tri vô giác - Biện pháp nghệ thuật: + Điệp ngữ vòng: đèn biết chăng – đèn có biết, diễn tả tâm trạng buồn triền miên, kéo dài lê thê trong thời gian và không gian, dường như không bao giờ đứt, ngừng. + Câu hỏi tu từ: đèn biết chăng? ⇒ như một lời than thở, thể hiện nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng luôn day dứt không yên trong người chinh phụ. b) 8 câu thơ còn lại - Cảnh vật thiên nhiên: + Gà eo óc gáy – sương năm trống: gà gáy báo hiệu canh năm, báo hiệu người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm ⇒ Tiếng gà khắc khoải như xoáy sâu vào tính chất tĩnh lặng của không gian, đồng thời cũng xoáy sâu vào tâm trạng người chinh phụ + Hòe phất phơ: cảnh vật quạnh hiu - Cảm thức của người chinh phụ về thời gian: + Hòe: bóng cây hòe ngoài sân, trong vườn ngắn rồi lại dài, dài rồi lại ngắn, thể hiện sự trôi đi của thời gian – thời gian của xa cách và nhớ thương + Thời gian của tâm trạng: Khắc, giờ ------------ niên Mối sầu ------------ biển xa - Hành động của người chinh phụ: + Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành + Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt. + Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. ⇒ Sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí ⇒ 16 câu thơ đầu thể hiện tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn sầu muộn của người chinh phụ. 2. Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ a) 6 câu thơ đầu - Hình ảnh thiên nhiên: + Gió đông: gió mùa xuân, gió báo tin vui, thể hiện sự sum họp, đoàn viên. + Non Yên: núi Yên Nhiên, nơi phương bắc xa xăm – nơi người chồng đang chinh chiến. - Biện pháp nghệ thuật + Hình ảnh ước lệ: non Yên. + Điệp ngữ vòng: non Yên, trời + Từ láy: thăm thẳm, đau đáu. ⇒ Không gian vô tận, mênh mông, không giới hạn, không chỉ là không gian vô tận ngăn cách hai vợ chồng, mà còn là nỗi nhớ không nguôi, không tính đếm được của người chinh phụ, là tình yêu thương của người vợ nơi quê nhà. b) 2 câu còn lại - Hai câu thơ mang tính khái quát, triết kí sâu sắc - Lời thơ chuyển sang độc thoại nội tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng người chinh phụ với hình ảnh người chinh phu tràn ngập trong tâm tưởng.

Bn tham khảo nhé!

Nguyễn Phương Liên
30 tháng 3 2021 lúc 16:49

Trả lời :

Nội dung: Tình cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về. Nỗi buồn ấy là sự tuyệt vọng, khắc khoải của người phụ nữ, dù biết chắc chồng sẽ khó có thể quay về nhưng trong thâm tâm vẫn hi vọng. Hi vọng càng lớn thì tuyệt vọng càng đau đớn, quằn quại.

Quynh Truong
Xem chi tiết
Hoàng Việt Bách
8 tháng 4 2022 lúc 18:32

Trong xã hội phong kiến ngày xưa có rất nhiều các tác phẩm nói về nỗi khổ tâm của người phụ nữ có chồng phải rời xa gia đình đi chiến trận. Thậm chí có những khi đó là những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nỗi khổ của họ là những nỗi đau đớn, dằn vặt mà không thể nói ra được thành lời, chỉ có thể giữ tâm trạng cô đơn ấy trong lòng. Và trong các tác phẩm văn học của thế kỉ XVIII nói riêng, phong kiến nói chung, chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm “ Chinh phụ ngâm khúc” của tác giả Đặng Trần Côn cùng nghệ thuật diễn Nôm xuất sắc của Đoàn Thị Điểm.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng báo tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Mở đầu là bốn câu thơ song thất lục bát làm cho người đọc phải suy ngẫm, như thoang thoảng đâu đây nét buồn mang mác, như nỗi lòng lo âu, sầu muộn của người phụ nữ ngày ngày trông ngóng tin chồng nơi chiến trận. Mới ngày nào vợ chồng còn sánh bước bên nhau, yêu thương sâu đậm mà nay trong căn phòng, ngoài hiên nhà chỉ còn bóng dáng lẻ loi của người vợ bên trong bức rèm nhìn ra xa xăm. Nàng ngày ngày ngóng trông tin người chồng nơi xa, trông chờ tiếng kêu của những con chim thước từ nơi chiến trường bay về, mang người chồng của nàng bình an nơi chiến trận. Ấy vậy mà nàng trông mãi mà không thấy tin lành từ phương xa. Đêm đêm, nàng vẫn một mình bên ngọn đèn, thế nhưng, đèn dẫu sao vẫn còn ngọn lửa tỏa ánh sáng ấm áp, còn nàng, lòng của nàng lại lạnh lẽo, mỏi mòn chờ người thương. Liệu ánh đèn ấm áp kia có hiểu:

White Hole
Xem chi tiết
minh nguyet
21 tháng 2 2021 lúc 13:20

Tham khảo dàn ý nhé:

1. Mở bài

Giới thiệu chủ nghĩa nhân đạo qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) của Đặng Trần Côn - Bản dịch của Đoàn Thị Điểm

2. Thân bài

- Khái niệm giá trị nhân đạo.

- Giá trị nhân đạo trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trước hết được thể hiện ở sự đồng cảm với nỗi nhớ mong của người con gái chờ chồng nơi phương xa.

 4 câu đầu: Sự mong ngóng, đợi chờ trong vô vọng của người chinh phụCâu 5 đến câu 8: Nhận ra không ai để mình có thể chia sẻ nỗi buồn, sự đau khổ càng tăng lên. Cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.Câu 9 đến câu 12: Nỗi buồn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gianCâu 13 đến câu 16: Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở tiếng nói cảm thương cho tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa.

Câu 17 đến câu 20: Nỗi nhớ mong muốn được nhắn gửi, nhưng lại xa vời vì khoảng cáchCâu 21 đến câu 24: Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường.Câu 25 đến câu 28: Tất cả những hình ảnh, âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ.

- Nhà thơ còn bộc lộ sự nhân văn của mình thông qua việc trân trọng, đồng tính với khát vọng được hưởng hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

Thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa.Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện.Những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

- Qua tất cả những sự đồng cảm ấy, tác giả đã lên án chiến tranh phi nghĩa, chia cắt đôi vợ chồng chinh phu - chinh phụ.

- Nghệ thuật của đoạn trích.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, và đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Mun Bánh Xèo
26 tháng 4 2021 lúc 21:08

1. Mở bài

Giới thiệu chủ nghĩa nhân đạo qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm) của Đặng Trần Côn - Bản dịch của Đoàn Thị Điểm

2. Thân bài

- Khái niệm giá trị nhân đạo.

- Giá trị nhân đạo trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trước hết được thể hiện ở sự đồng cảm với nỗi nhớ mong của người con gái chờ chồng nơi phương xa.

 4 câu đầu: Sự mong ngóng, đợi chờ trong vô vọng của người chinh phụCâu 5 đến câu 8: Nhận ra không ai để mình có thể chia sẻ nỗi buồn, sự đau khổ càng tăng lên. Cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.Câu 9 đến câu 12: Nỗi buồn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gianCâu 13 đến câu 16: Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở tiếng nói cảm thương cho tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa.

Câu 17 đến câu 20: Nỗi nhớ mong muốn được nhắn gửi, nhưng lại xa vời vì khoảng cáchCâu 21 đến câu 24: Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường.Câu 25 đến câu 28: Tất cả những hình ảnh, âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ.

- Nhà thơ còn bộc lộ sự nhân văn của mình thông qua việc trân trọng, đồng tính với khát vọng được hưởng hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

Thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa.Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện.Những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

- Qua tất cả những sự đồng cảm ấy, tác giả đã lên án chiến tranh phi nghĩa, chia cắt đôi vợ chồng chinh phu - chinh phụ.

- Nghệ thuật của đoạn trích.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, và đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

andiengn
Xem chi tiết
Đỗ Tuệ Lâm
2 tháng 3 2022 lúc 7:27

1. Tham khảo :

những điều tâm đắc là:

 Tâm trạng của người chinh phụ ở 16 câu đầu: ​cô dơn lẻ loi, rối bời, nhung nhớ đến ngẩn ngơ, buồn sầu triền miên đến mê sảng.

Chi tiết giá trị nội dung và nghệ thuật trong trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật, cách sử dụng từ ngữ trong tác phẩm này

Nguyễn trọng toàn
Xem chi tiết
minh nguyet
16 tháng 10 2021 lúc 7:42

Đề văn gì lạ vậy em, tr ơi

Lưu Võ Tâm Như
16 tháng 10 2021 lúc 7:45

undefined

Phạm Thu Hà
Xem chi tiết
Đào Thành Lộc
18 tháng 2 2016 lúc 10:54

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả 

Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Ngoài tác phẩm chính " Chinh phụ ngâm", ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán.

2. Tác phẩm

Đặng Trần Côn là người hiếu học, tài ba. Đoàn Thị Điểm là nữ sĩ có tài thơ phú nổi tiếng từ nhỏ. Bà đã dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn một cách tài hoa. Tác phẩm có giá trị tố cáo chiến tranh, bênh vực quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Chinh phụ ngâm đánh dấu một đỉnh cao mới về ngôn ngữ văn học tiếng Việt.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói lên tâm sự, nỗi lòng người chinh phụ trong cảnh lẻ loi, cô đơn khủng khiếp, đồng thời thể hiện khát vọng vô cùng mãnh liệt được sống trong tình yêu và hạnh phúc, một khát vọng khẩn thiết đến đau đớn. Ý nghĩa chống chiến tranh phong kiến phi nghĩa toát lên một cách khách quan từ bi kịch này. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm trạng vô cùng phong phú và tinh tế. Thể thơ song thất lục bát mà bản dịch sử dụng rất phù hợp với nhu cầu diễn tả nội tâm đau khổ, sầu muộn của con người. Lời than trực tiếp của nhân vật trữ tình với cách dùng ngôn ngữ, các biện pháp tu từ nhất là những từ láy và phép điệp ngữ liên hoàn đã tạo nên giọng điệu bi thiết của đoạn trích

II. Trả lời câu hỏi

1. Trong thơ ca trung đại, thủ pháp tả cảnh ngụ tình là một trong những thủ pháp nghệ thuật khá quen thuộc.

Ở trong đoạn trích này, tác giả cũng dùng các yếu tố ngoại cảnh cóa tương quan với tâm trạng để diễn tả những biến thái tinh vi trong tâm hồn của nhân vật. Trong những đêm cô đơn, buồn khổ, người thiếu phụ chỉ có ngọn đèn vô tri vô giác chia sẻ bao nỗi ưu tư.

Đêm đêm, người thiếu phụ ngồi bên ngọn đèn mong ngóng, nhớ nhung, sầu muộn cho đến khi cái bấc cháy rụi thành than hồn rực như hoa. Thời gian cứ thế trôi qua đau nhói còn nỗi tuyệt vọng kia cứ cháy ngày một tăng, Nhà thơ tả ngọn đèn leo lét như chính là để tả không gian mênh mông và sự cô đơn trầm lặng của con người. Màn đêm sâu thẳm, âm u và tĩnh mịch còn được điểm thêm vào bởi những tiếng gà eo óc suốt năm canh. Tiếng gà là âm thanh duy nhất trong đêm nhưng nó ngay lập tức bị chìm đi trong cái tô tịch của đêm. Điểm thêm vào bức tranh sầu muộn ấy là bóng cây hòe thế nhưng nó cũng chỉ lại gợi ra thêm  cảm giác hoang vắng và đáng sợ mà thôi. Cảnh vật quạnh hiu bởi lòng người đang sầu đau tê tái vì nỗi nhỡ mong và sự khát khao hạnh phúc đang tràn ngập trong lòng. Âu đó cũng là cái quy luật tâm lí chung của con người mà Đặng Trần Côn đã viết :

" Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun"

2. Những dấu hiệu cho thấy nỗi cô đơn của người chinh phụ

- Người chinh phụ ngày ngày không lúc nào nguôi ngóng trông chông, rủ rèm rồi lại cuốn rèm, đi đi lại lại trong hiên vắng để chờ đợi một tin tốt lành nào đó báo người chồng sắp trở về nhưng vẫn bặt tin.

- Đêm đêm, nàng lại thức cùng ngọn đèn leo lét với màn đêm hoang vắng và cô tịch trong sự đợi mong đến tiều tụy

- Vì quá buồn đau, người chinh phụ cũng chẳng thiết tha gì với bản thân

3. Người chinh phụ buồn đau, thất vọng vì :

- Lo lắng cho sự an nguy của người chồng nơi chiến trận

- Tuổi trẻ qua đi vội vã ( hạnh phúc và tình yêu cũng sẽ mất theo - khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi)

- Niềm tin vào cuộc sống tương lai mỏng manh và mờ nhạt

4. Hãy cho biết vì sao người chinh phụ đau khổ?

Đoạn trích diễn tả nỗi đau khổ tột đỉnh của người chinh phụ, đau khổ ở mọi nơi, mọi lúc, đau khổ trải ra trong không gian và dằng dặc theo thời gian. Nàng nhìn đâu cũng chỉ thấy tình cảnh lẻ loi của bản thân mình. Nỗi lạnh lẽo, buốt giá từ cõi lòng người chinh phụ đã trùm lên ngoại cảnh, len lỏi vào các sự vật,... khiến nàng thốt lên những lời sầu tủi bi thiết.

Nguyên nhân dẫn tới nỗi đau khổ của người chinh phụ thật dễ hiểu. Chồng nàng đi chinh chiến nơi chiến địa sa trường đã mấy mùa xuân bặt vô âm tín. Người chinh phụ đã phải chờ đợi,... chờ đợi,... và chờ đợi đến héo mòn tuổi xuân, tưởng có lúc tuyệt vọng hoàn toàn. Người chinh phụ càng khát khao đoàn tụ, khát khao cuộc sống vợ chồng bao nhiêu lại càng rơi vào tình cảnh tuyệt vọng bấy nhiêu. Đó là bi kịch khiến người chinh phụ đau khổ, bất hạnh.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến nỗi đau khổ của người chinh phụ chính là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà vì nó vợ chồng nàng phải xa nhau, chồng nàng có nguy cơ bỏ mình nơi chiến địa. Chiến tranh phong kiến phi nghĩa "dãi thây trăm họ làm công một người" đã làm cho bao gia đình tan nát, bao tổ ấm trở nên lạnh lẽo. Bi kịch của người chinh phụ, vì thế là bi kịch có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa một cách mạnh mẽ và sâu sắc đồng thời qua đó cũng toát lên tiếng nói nhân đạo lớn lao của tác phẩm.

 5. Đọc diễn cảm đoạn trích (nếu ngâm được càng tốt). Hãy nhận xét về nhạc điệu của thể thơ song thất lục bát (có so sánh với các thể thơ mà anh (chị) biết).

Thể thơ song thất lục bát là một thể thơ truyền thống của dân tộc ta. Bản thân cách cấu tạo câu thơ và vần luật của nó cũng đã tạo nên một thứ nhạc điệu lên bổng xuống trầm một cách linh hoạt, có khả năng diễn tả tài tình những cung bậc khác nhau của tâm trạng con người. Phan Huy Chú cũng đã dịch Tì bà hành của Bạch cư Dị sang thể thơ này, Nguyễn Du dùng thể thơ này để khóc cho "thập loại chúng sinh” trong Văn chiêu hồn,...

Chinh phụ ngâm là khúc ngâm dài diễn tả mọi cung bậc của nỗi buồn triền miên ở người chinh phụ. Nguyên tác của Đặng Trần Côn được viết bằng chữ Hán, theo thể đoản trường cú (câu ngắn, câu dài xen nhau). Người dịch giả tài hoa - Đoàn Thị Điểm - với một nỗi cảm thông kì lạ với nỗi lòng người chinh phụ đã dịch tác phẩm của Đặng Trần Côn sang bản chữ Nôm với thể thơ song thất lục bát thật vô cùng đắc địa. Có thể nói, chính nội dung tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình và sự đồng cảm cao độ của người nghệ sĩ đã bắt gặp thể thơ song thất lục bát như một định mệnh để rồi tất cả tiếng lòng sầu thương ai oán của người chinh phụ đã được tấu lên với giọng cao thấp, bổng trầm mà khó có thể thơ nào có thể diễn tả được như thể.

Nếu khúc ngâm được viết bằng thể thơ khác thì chắc chắn hiệu quả biểu đạt sẽ không bằng thể song thất lục bát. Gần hơn cả với thể thơ này là thể thơ lục bát. Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng thể thơ này vì đó là một tiểu thuyết bằng thơ. Chinh phụ ngâm là một khúc ngâm có tính "độc diễn" tâm trạng. Nếu sử dụng thể thơ lục bát sẽ không tránh khỏi giọng đều đều bằng phẳng. Thể song thất lục bát đã khắc phục được điều đó.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngoài nhạc điệu vốn có của thể thơ song thất lục bát, giọng sầu thương bi thiết còn được tạo nên bởi cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh có giá trị gợi tả nỗi buồn, tình cảnh lẻ loi; các từ láy cùng với biện pháp điệp từ ngữ, lối đối cũng góp một phần không nhỏ vào việc tạo nên giọng điệu sầu bi ấy. Điều quan trọng là tâm trạng buồn đau tê tái của người chinh phụ và sự đồng cảm đến tận cùng của tác giả đã cộng hưởng cùng với thể thơ và các thủ pháp nghệ thuật tạo nên giọng điệu riêng của tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng vì xét đến cùng thì giọng điệu thơ chính là giọng điệu của tâm hồn

FREESHIP Asistant
Xem chi tiết
Nguyễn Lê Gia Hưng
Xem chi tiết
minh nguyet
23 tháng 1 2021 lúc 19:31

Tham khảo:

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong bài Chinh phụ ngâm, nguyên tác chữ Hán là của tác giả Đặng Trần Côn, về dịch giả thì có nhiều quan điểm tranh cãi tuy nhiên đến nay người ta đã thống nhất cho rằng đó là Đoàn Thị Điểm. Đây là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thế kỷ XVIII, cùng mang một nội dung nhân đạo mới mẻ đó là không chỉ đồng cảm thương xót với số phận bất hạnh của con người mà còn hướng tới thể hiện sự trân trọng ngợi ca trước khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người, đặc biệt là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến có nhiều bất công.

Về tác giả, Đặng Trần Côn có thể được xem là một trong những tác giả bí ẩn nhất của nền văn học Việt Nam, những tài liệu và thông tin về ông cực kỳ ít và dường như không có ghi chép gì đáng kể. Chỉ biết rằng, Đặng Trần Côn sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, quê ở làng Nhân Mục, thuộc huyện Thanh Trì (nay là Thanh Xuân, Hà Nội). Tương truyền ông là người thông minh hiếu học, đã từng thi đỗ Hương Cống. Sự nghiệp sáng tác ngoài Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm nổi tiếng, xuất sắc nhất thì còn có các tác phẩm thơ phú bằng chữ Hán như Tiêu Tương bát cảnh, Tùng bách thuyết thoại, Bích câu kỳ ngộ,...

Về dịch giả, thì Chinh Phụ ngâm có tổng cộng bốn bản dịch của các tác giả khác nhau trong đó bản dịch được khắc in hiện nay là bản dịch được lưu truyền rộng rãi và phổ biến nhất. Và đến nay người ta vẫn còn nhiều tranh cãi về việc bản dịch hiện hành này là của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích. Nói về Đoàn Thị Điểm, bà được đánh giá là người phụ nữ có sắc đẹp và tài văn ưu tú nhất trong số các nữ sĩ thời trung đại. Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, quê quán ở Văn Giang, nay thuộc tỉnh Hưng Yên, là người nổi tiếng thông minh và xinh đẹp. Tuy nhiên đường tình duyên của bà lại khá lận đận, lấy chồng muộn vào tuổi 37, chồng là tiến sĩ Nguyễn Kiều, và ngay sau cưới chồng lại phải đi sứ xa, có thể điều đó khiến Đoàn Thị Điểm rất sầu muộn và có mối đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ trong bài Chinh phụ ngâm, nên đã tiến hành dịch bài thơ này. Về giả thuyết dịch giả là Phan Huy Ích, thì ông sinh vào năm 1750 và mất năm 1822, tự là Dụ An, quê gốc ở Hà Tĩnh, sau đó chuyển sang sinh sống ở Quốc Oai, nay thuộc Hà nội, đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi.

Tác phẩm Chinh phụ ngâm, nguyên tác được viết theo thể trường đoản cú, bao gồm tổng thể 476 câu thơ dài ngắn không đều nhau. Bản dịch chữ Nôm được dịch giả dùng thể ngâm khúc, thường diễn tả những tâm tư, tình cảm của con người với những lời than vãn, ai oán, đau khổ. Kết hợp với thể thơ song thất lục bát của dân tộc, gồm hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ, một câu 8 chữ, làm cho bài thơ thêm giàu nhạc điệu, uyển chuyển, đậm đà bản sắc dân tộc.

Chinh phụ ngâm được sáng tác vào đời đầu của vua Lê Hiển Tông, trong bối cảnh có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục xảy ra xung quanh kinh thành Thăng Long, dẫn tới triều đình phải cất quân đánh dẹp. Nhiều thanh niên trai tráng lần lượt phải lên đường tòng quân, bỏ lại vợ dại, con thơ ở nhà trong nỗi sầu muộn, thương nhớ mòn mỏi. Cảm động và đồng cảm trước tình cảnh của những người vợ lính xa nhà, Đặng Trần Côn đã sáng tác ra bài thơ Chinh phụ ngâm để bày tỏ sự thấu hiểu, sẻ chia với hoàn cảnh của những người phụ nữ này. Nội dung chính của tác phẩm chủ yếu năm ở hai điểm thứ nhất là sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa, nội dung thứ hai đóng vai trò chủ đề ấy là diễn tả tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người, là nét mới trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỷ XVIII.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nằm từ câu thứ 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm. Bố cục đoạn trích có thể được chia làm ba phần, phần đầu từ "Dạo hiên vắng...bóng người khá thương" diễn tả nỗi bồn chồn, ngóng trông của người chinh phụ, phần thứ hai tiếp theo đến "...tựa miền biển xa", cảm giác về thời gian chờ đợi mòn mỏi của chinh phụ, phần thứ ba tiếp theo đến "Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng" là sự gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ, phần còn lại của đoạn trích là niềm mong ước được gửi tấm lòng thương nhớ đến chồng của người chinh phụ. Như vậy ta có thẻ tổng kết được rằng chủ đề chính của đoạn trích chính là những cung bậc cảm xúc cô đơn khác nhau của người chinh phụ luôn có khao khát được sống cuộc sống hạnh phúc, yên ấm bên chồng con. Và điều ấy được thể hiện một cách uyển chuyển qua từng phần của đoạn trích.

Trong đoạn đầu:

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phenNgoài rèm thước chẳng mách tinTrong rèm dường đã có đèn biết chăngĐèn có biết dường bằng chẳng biếtLòng thiếp riêng bi thiết mà thôiBuồn rầu chẳng nói nên lờiHoa đèn kia với bóng người khá thương"

Thế giới tâm trạng của người chinh phụ thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại, hết đi qua đi lại bên hiên vắng với bước chân nặng nề, chán nản, thì lại chuyển sang ngồi xuống ngẩn ngơ bên rèm, bộc lộ sự thấp thỏm bất an, bồi hồi trong lòng của người chinh phụ. Chán đứng, chán ngồi, người chinh phụ lại hết buông rèm, rồi lại vén rèm lên, hết ngóng ra ngoài lại thẫn thờ quay vào nhìn chăm chăm vào ngọn đèn mờ, điều đó thể hiện sự chờ mong khắc khoải, bồn chồn và nỗi cô đơn trống vắng đến tội nghiệp của người chinh phụ. Không chỉ diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những hành động vô thức lặp lại mà Đặng Trần Côn còn diễn tả thông qua ngoại cảnh xung quanh, trong đó hình ảnh ngọn đèn vô tri vô giác lại trở thành người bạn duy nhất để người chinh phụ chia sẻ nỗi buồn rầu bi thiết của mình. Nhưng chính vì ngọn đèn là vô tri vô giác, nên bộc lộ tâm tư chỉ ở một phía người chinh phụ, còn ngọn đèn chong ấy thì mãi mãi không thể vỗ về, an ủi người chinh phụ, dẫn tới sự cô đơn càng trở nên rõ ràng hơn cả.

Đoạn tiếp theo:

"Gà eo óc gáy sương năm trốngHòe phất phơ rủ bóng bốn bênKhắc giờ đằng đẵng như niênMối sầu dằng dặc tựa miền biển xa"

Tiếng gà "eo óc" là một từ láy tượng thanh rất hay diễn tả thật đạt cái cảnh vắng vẻ quạnh quẽ sớm hôm đầy thê lương, thêm vào đó cành hòe phất phơ yếu đuối lại càng có giá trị tương hỗ diễn tả cái cảnh triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn lẻ loi. Làm nổi bật cảnh tượng cô đơn một bóng, người chinh phụ lại càng thấm thía hơn bao giờ hết cảnh thời gian trôi qua một cách chậm rãi, vô vị, cùng với mối sầu khổ trải dài mênh mông vô tận trong tâm khảm.

Đến đoạn thứ 3 khi người chinh phụ gắng gượng vượt qua nỗi cô đơn nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau nhưng dường như nỗi nhớ, nỗi cô đơn lại càng trở nên mãnh liệt.

"Hương gượng đốt hồn đà mê mảiGương gượng soi lệ lại châu chanSắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng"

Đốt hương để tìm sự thanh thản, tìm sự che chở trong thế giới tâm linh thế nhưng bản thân nàng lại càng chìm đắm hơn vào trong nỗi sầu "mê mải". Soi chỉnh dung nhan, tìm vui thú trong việc điểm trang, thế nhưng lại phải đối diện với sự cô đơn, càng thấm thía hơn cái cảnh ngộ của bản thân mình khi nhận thấy dung nhan ngày càng một tiều tụy, tuổi xuân ngày càng vơi bớt. Khi tìm đến ngón đàn giải khuây thì chinh phụ lại phải đối mặt với nỗi lo lắng khi sợ đàn đứt dây, mang đến điềm ý xấu.

Đoạn cuối cùng nỗi cô đơn trống trải của người chinh phụ tiếp tục được gửi gắm thông qua các hình ảnh thiên nhiên.

"Lòng này gửi gió đông có tiện...Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun"

Đoạn thơ tái hiện lại không gian khoảng cách chia xa giữa người chinh phu và người chinh phụ, thông qua từ "non Yên", ý chỉ nơi người chồng đang tranh đấu và thông qua cả hai câu thơ "Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời/Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu", diễn tả khoảng cách xa xăm ngàn dặm, khó có thể vượt qua. Tuy nhiên với nỗi nhớ thương đong đầy, người chinh phụ đã tìm ra được một giải pháp rất hay ấy là gửi nỗi nhớ "nghìn vàng" cho cơn gió Đông mang theo ra tiền tuyến. Rồi cuối cùng lại quay trở lại đối mặt với bi kịch cô đơn quạnh quẽ của mình.

Về đặc sắc nghệ thuật ta có thể thấy trong đoạn trích này, đặc sắc nghệ thuật chủ yếu là sự thành công trong việc miêu tả, bộc lộ tâm trạng nhân vật, biến thế giới vô hình trở thành vô hình thông qua việc miêu tả các hành động, dáng điệu, cử chỉ của nhân vật và thiên nhiên bên ngoài. Thứ hai nữa là sự uyển chuyển trong việc sử dụng thể thơ song thất lục bát có tính nhạc điệu, cùng với hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật.

Kết lại Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói riêng và Chinh phụ ngâm nói riêng là một tác phẩm hay và nổi bật trong nền văn học trung đại của Việt Nam thế kỷ XVIII, với những giá trị nhân văn, nhân đạo vô cùng cao cả, tốt đẹp dần hướng đến đề cao, ca ngợi ước mơ, khát vọng hạnh phúc của con người cũng như người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Ngoài ra nó còn là tác phẩm gián tiếp tố cáo tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên và sự bất lực của triều đình trong việc an dân.

︵✰Ah
23 tháng 1 2021 lúc 19:18
Tương đồng với Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trên phương diện khẳng định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ cũng như khả năng vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát, song bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm lại có phần giản lược những suy tưởng triết lý cao siêu và hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời thường. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho nỗi nhớ mong chồng, khát khao cuộc sống gia đình bình dị và ước mong về một ngày đoàn tụ vợ chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng hiền hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng - Đoàn, trong đó phải kể đến nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.Tâm trạng nổi bật trong đoạn trích gồm 36 câu thơ trong tổng số 408 câu của toàn tác phẩm là sự thể hiện nỗi đơn côi, trống vắng của người chinh phụ. Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - người chinh phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy:Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.Trong khổ thơ mở đầu (từ câu 1 - 16) có hai hình ảnh quan trọng được tô đậm, nhấn mạnh trở đi trở lại là tấm rèm và bóng đèn. Người chinh phụ "ngồi rèm thưa" mà trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Cuộc sống nơi "trong rèm" chính là sự bó buộc, trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng. Câu thơ chuyển tiếp Trong rèm dường đã có đèn biết chăng càng tôn thêm vẻ vắng lặng, đơn côi, một mình chinh phụ đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vô tri vô giác Đèn có biết dường bằng chẳng biết và đi đến kết cuộc Hoa đèn kia với bóng người khá thương... Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức sống, con người đã bị "vật hoá" tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, con người bây giờ chỉ còn là "bóng người" trống trải, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của chính kiếp hoa đèn tàn lụi. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những "gà eo óc gáy sương", "hoè phất phơ rủ bóng"... Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người:Khắc chờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.Trong sự chờ đợi, người chinh phụ thấy một khoảng thời gian ngắn mà dài như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang. Những trạng từ "đằng đẵng", "dằng dặc" tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng người chinh phụ có xuất hiện trở lại thì trước sau vẫn là nỗi chán chường, buông xuôi, vui gượng "Hương gượng đốt", "Gương gượng soi", "Sắt cầm gượng gảy" mà không sao che đậy nổi một hiện thực bất như ý "hồn đà mê mải", "lệ lại châu chan" và "Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng"...Ở đoạn thơ tiếp theo (câu 17 - 28) là sự phản ánh nỗi lòng chinh phụ khi nhớ về người chồng. Có điều, nếu hình ảnh người chồng hiện diện như một ý niệm xa mờ thì bản thân nỗi nhớ mong cũng chỉ như một ảo giác. Sự gặp gỡ là điều không thể bởi tin tức mịt mờ, bởi khoảng cách về không gian, về địa danh có tính phiếm chỉ, biểu tượng của miền "non Yên", "đường lên bằng trời", "xa vời khôn thấu"... Các từ "thăm thẳm", "đau đáu", "thiết tha" gợi nhớ gợi thương, day đi dứt lại trong tâm can người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa, đắng cay nối dài bất tận:- Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời- Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xongGiống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên:Cảnh buồn người thiết tha lòng,Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.Hình ảnh so sánh "sương như búa", "tuyết dường cưa" là sự cực tả những xao động của thế giới bên ngoài thông qua cách hình dung của chinh phụ, khi nàng bất chợt không còn chịu đựng nổi ngay cả vẻ bình dị đời thường và bột phát thành những ám ảnh dị thường. Đó là những tâm trạng khác biệt nhau cùng tồn tại trong một con người, sự phân thân trong cách cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống. Trong bản chất, chính tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã tạo nên những xung đột tình cảm khác biệt nhau và phổ vào thế giới tự nhiên tất cả những trái ngang, những thất vọng và cả niềm hy vọng mong manh, những giây lát yên tĩnh nhất thời và những cơn bão lòng dường như không thể nguôi khuây.Bước vào đoạn cuối (câu 29 - 36), người chinh phụ vươn tới không gian thoáng rộng hơn với những hàng hiên, ngọn gió, bóng hoa, ánh trăng nhưng đó cũng chỉ là thiên nhiên lạnh lùng, thiếu hẳn niềm tin và hơi thở ấm áp của sự sống. Cảnh vật như tách khỏi con người và không thấy đâu hoạt động của con người. Tất cả chỉ đơn thuần là cảnh vật và vì thế càng tôn thêm vẻ lạnh lùng, đối lập với tâm tư con người và hình ảnh nhân vật chinh phụ đang khuất lấp, ẩn chìm đâu đó:Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!Đến hai câu thơ cuối bắt đầu hé mở tâm trạng so sánh. Người chinh phụ nhìn cảnh hoa nguyệt mà trạnh lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận mình, tủi phận mình lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa. Từ đây có thể nói tới những dự cảm về ý thức cá nhân của người chinh phụ và xa gần liên hệ tới quyền sống, quyền hưởng niềm vui, hạnh phúc lứa đôi giữa chốn nhân gian.Trên phương diện nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát với sự kết hợp hai câu thơ bảy chữ kiểu Đường thi hàm súc, trang nhã, đăng đối và câu thơ lục bát truyền thống giàu âm điệu, gợi cảnh gợi tình đã tạo nên nhịp thơ buồn thương man mác, nối dài không dứt. Quan sát kỹ có thể thấy từng bốn câu thơ đi liền nhau tạo thành một tiết đoạn, trong đó hai câu thất ngôn đóng vai trò khơi dẫn ý tứ, hai câu lục bát tiếp theo hướng tới luận bình, khai triển, mở rộng. Cứ như thế, các ý thơ, khổ thơ tiếp tục luân chuyển, nối tiếp nhau như những ngọn sóng cảm xúc đang trào dâng. Ngay trong từng câu thơ cũng xuất hiện những tiểu đối tạo nên tính chất hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh:- Dây uyên kinh đứt/ phím loan ngại chùng- Cành cây sương đượm/ tiếng trùng mưa phun- Sâu tường kêu vắng/ chuông chùa nện khơiThêm nữa, tác phẩm diễn Nôm bên cạnh việc giữ lại và Việt hoá được cả hệ thống điển tích và từ Hán Việt (non Yên, sắt cầm, dây uyên, phím loan, gió đông...) thì nhiều ý tứ trong nguyên tác đã được chuyển dịch, nâng cấp thành lời thơ thật sự giàu chất thơ. Chẳng hạn, với câu Sầu tự hải - Khắc như niên (nguyên ý nghĩa chỉ là Sầu tựa biển - Khắc như năm) đã được chuyển dịch thành câu thơ mang sắc thái nội tâm hoá, giàu cảm xúc, khơi gợi âm điệu cảm thương:Khắc chờ đằng đẵng như niên,Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Không có gì khác hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài, khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn cảm xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc. 
Nguyễn Lê Gia Hưng
Xem chi tiết
✿✿❑ĐạT̐®ŋɢย❐✿✿
27 tháng 1 2021 lúc 13:12
I. Mở bài- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn thị Điểm: tên tuổi, con người, sự nghiệp văn chương

- Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích).

II. Thân bài

1. 16 câu đầu: Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.

- “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.

- “Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm

→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ

- Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ

b. Thao thức ngóng trông tin chồng

- Ban ngày:

   + Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.

 

   + Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.

- Ban đêm:

   + Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san xẻ nỗi lòng cùng nàng.

   + Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.

 

   + So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.

- Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.

   + “Hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.

   + Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:

“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”

c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.

 

- “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả

- Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.

→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.

d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.

- “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.

- Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc, đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.

→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ

e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.

- Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ

- Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:

   + Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành

   + Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.

   + Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

 Soạn bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Đặng Trần Côn) hay nhấtTác giả - tác phẩm bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụTrắc nghiệm bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Đặng Trần Côn) có đáp án

⇒ Tiểu kết:

- Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.

- Nghệ thuật:

   + Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng

   + Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm

   + Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.

2. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.

a. Ước muốn của người chinh phụ.

- “Gió đông”: Gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống

- “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi

- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)

→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.

b. Nỗi nhớ của người chinh phụ

- Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu trong lòng người chinh phụ

- Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.

 

→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.

→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.

c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.

- “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau

- Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.

→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.

⇒ Tiểu kết.

- Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ

- Nghệ thuật:

   + Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy

   + Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

   + Giọng điệu da diết, buồn thương

III. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

- Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương. Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ.