Trong văn bản “Hoàng Lê nhất thống chí” – Hồi thứ mười bốn, nhóm tác giả Ngô gia văn phải viết: “Vua Quang Trung lại nói: - Lần này ta ra, thân chinh cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc bình không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng?” (Ngữ văn 9, tập một NXB Giáo dục Việt Nam, 2018) 1. Vua Quang Trung đã nói lời nói trên ở đâu? Với ai? Nói trong hoàn cảnh nào? 2. Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ cú pháp có trong câu văn: “Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi lực lượng bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng?” Từ “ta” trong đoạn văn thuộc từ loại nào? Nghĩa của các từ “ta” trong đoạn văn có giống nhau không? Hãy chỉ rõ? 3. Quan điểm mang lại “phúc cho dân” và vì dân mà diệt trừ các thế lực bạo tàn còn được đề cập trong một văn bản ở chương trình Ngữ văn THCS. Đó là văn bản nào? Của ai? Em hãy chép lại hai câu thể hiện rõ quan điểm đó trong văn bản em tìm được. 4. Bằng một đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận Tổng – Phân - Hợp, trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của vua Quang Trung được khắc họa trong đoạn văn trên, trong đó có sử dụng cầu cảm thán và khởi ngữ (gạch một gạch dưới câu cảm thán và hai gạch dưới khởi ngữ).
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“ ... Vua Quang Trung lại nói:
- Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”
(Trích Hồi thứ mười bốn “Hoàng Lê nhất thống chí”- Ngô gia văn phái)
Câu 1: Những lời trên là lời của vua Quang Trung nói với ai? Nói trong hoàn cảnh nào?
Câu 2: Giải thích nghĩa của từ Phương lược.
Câu 3: Lời nói của vua Quang Trung trong đoạn trích trên được dẫn theo cách dẫn trực tiếp hay cách dẫn gián tiếp? Vì sao?
Em tham khảo:
1. Đoạn trích là lời của vua Quang Trung nói với các tướng sĩ dưới quyền.
Trong hoàn cảnh quân Thanh kéo sang xâm lược nước ta
2. Nghĩa của từ "phương lược " là Đường lối để làm việc lớn.
Đồng tình với nhau về đường lối hành động.
3. Đây là lời dẫn trực tiếp vì
Đoạn trích là lời của vua Quang Trung
nói với các tướng sĩ dưới quyền.
trong hoàn cảnh quân Thanh đang kéo sang xâm lược nước ta
Cho đoạn trích: " Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái....Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó."
a) Trong đoạn trích trên tác giả Ngô Gia Văn Phái đã nhắc tới nét đẹp nào trong phẩm chất của vua Quang Trung? Căn cứ nào cho em biết điều đó ?
b) Trong Hoàng Lê nhất thống chí tác giả Ngô Gia Văn Phái đã sử dụng bút pháp tương phản đối lập như thế nào ?
Viết một đoạn văn ngắn tóm tắt hồi 14: Đánh Ngọc Hồi quân Thanh bị thua trận. Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài (trích Hoàng Lê nhất thống chí) của Ngô Gia Văn Phái.
a/ Mở đoạn: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
b/ Thân đoạn:
- Nhận được tin cấp báo quân Thanh chiếm được thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và thân chinh cầm quân đi dẹp giặc.
- Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
c. Kết đoạn:
- Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với lòng yêu nước quả cảm tài chí và sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê.
viết đoạn văn (khoảng 1 trang giấy) trình bày cảm nhận của em về 2 đặc điểm của Vua Quang Trung trong văn bản "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (hồi thứ 14) của Ngô Gia Văn Phái
viết đoạn văn (khoảng 1 trang giấy) trình bày cảm nhận của em về 2 đặc điểm của Vua Quang Trung trong văn bản "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (hồi thứ 14) của Ngô Gia Văn Phái
Đọc “Hồi thứ 14” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, ta thấy người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ là một bậc kì tài quân sự. Khi nghe được tin cấp báo quân Thanh sang xâm lược nước ta, ông đã tự mình vạch ra phương lược tiến đánh. Ông trực tiếp chỉ huy đại binh thần tốc, bí mật tiến ra Bắc, một cuộc tiến công chưa từng có trong lịch sử trước đó. Ông là người có tài điều binh khiển tướng, tài đó được thể hiện rõ nhất trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An và trong cách xử trí tướng sĩ. Lời hịch của ông là lời của non sông đất nước, kích thích lòng yêu nước, khơi gợi chí căm thù và khích lệ tinh thần xả thân cứu nước. Cách đánh giặc của Quang Trung đa dạng, linh hoạt, phong phú và luôn ở thế chủ động khiến quân giặc trở tay không kịp. Khi thì bí mật bao vây giặc ở đồn Hà Hồi; lúc thì áp sát đánh giặc dũng cảm, táo bạo ở đồn Ngọc Hồi; lúc đánh nghi binh ở đê Yên Duyên; khi mai phục ở Đầm Mực… Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung tiến quân như vũ bão khiến giặc đại bại “thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước”, tướng Sầm Nghi Đống “thắt cổ tự vẫn”, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước “ngựa không kịp đóng yên”… Quả thật, Quang Trung là bậc anh hùng lão luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ, nhân dân ta đời đời biết ơn. Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ trong Ngô gia văn phái. Nó làm cho trang văn “Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Phần 2: Đọc đoạn truyện sau trích Hồi 14, Hoàng lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái
“- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”.
1.Giải thích nhan đề tác phẩm. (0,5đ)
2.Đoạn trích sử dụng hình thức ngôn ngữ nào ? Những dấu hiệu nào cho em biết điều đó ?(1đ)
3.Xét theo mục đích nói, 2 câu cuối của đoạn trích thuộc kiểu câu gì ? Kiểu câu đó có những đặc điểm cơ bản nào ? (1đ)
4. Viết đoạn văn T-P-H khoảng 12 câu để trình bày cảm nhận về nhân vật qua đoạn trích trên. Trong đó có sử dụng ít nhất 1 câu ghép, gạch chân câu ghép đó.(3,5đ)
Trong văn bản “Hoàng Lê nhất thống chí” (Hồi thứ mười bốn), nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái có viết:
... “ - Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bọc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”
(Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam)
Câu 1: Đoạn trích trên là lời của ai nói với ai? Nói trong hoàn cảnh nào? Qua đó ta hiểu được những nét đẹp tính cách nào của nhân vật?
Câu 2: Xét về mục đích nói, câu “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”thuộc kiểu câu gì? Vì sao em cho là như vậy?
Câu 3: Em hãy viết một đoạn văn có độ dài khoảng 12 câu theo cách tổng - phân - hợp phân tích đoạn trích trên để thấy được trí tuệ sáng suốt và nhạy bén của nhân vật “ta”. Trong đoạn văn có sử dụng một câu nghi vấn bộc lộ cảm xúc và trợ từ (Gạch chân và chú thích rõ câu nghi vấn và trợ từ).
dựa vào hồi 14 trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Văn phái hãy viết một đoạn văn theo cách quy nạp khoảng 12 câu làm rõ trí tuệ nhạy bén sáng suốt của vua Quang Trung Nguyễn Huệ trong đoạn văn có sử dụng câu bị động