Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Bảo Bảo
Xem chi tiết
Kiều Trang
10 tháng 1 2020 lúc 19:58

Trong hơn 1000 năm Bắc Thuộc, bọn giặc phương Bắc thủ đoạn dùng đồng hóa nhằm mai một dân tộc Việt Nam, với mục đích duy nhất sát nhập lãnh thổ nước ta vào bản đồ Trung Quốc, tuy nhiên sự thật lịch sử đã khẳng định, dân tộc Việt Nam kiên cường bất khuất đã đánh bại hoàn toàn chế độ thống trị hà khắc suốt 1000 nghìn của giặc Bắc, giành lại chủ quyền độc lập

- Nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi trong cuộc chiến đấu nói chung và chống đồng hóa nói riêng đều bắt nguồn từ làng xã

- Làng, xã là cái nôi của mọi nên văn hóa, truyền thống, đây là nơi ấm ủ bao mầm sống tương lai, bao nét đẹp văn hóa của dân tộc, từ lãng xã sẽ lan tỏa khắp mọi miền, dẫu giặc Bắc có đồng hòa thế nào , có làm thay đổi ra sao, nhưng với cái nôi làng xã giữ vừng thì ắt hẵn dân tộc Việt vẫn giữ vừng cái cốt cách thanh cao vốn có

- Ngoài ra trong quá trình đồng hóa, với những chủ quan kinh thường, giặc Bắc không động đến làng xã mà chỉ tập trung vào các vùng kinh đô, vì thế Làng xã vẫn giữ được nét văn hóa không bị mai mốt

- Từ làng xã nền văn hóa dân tộc đó tiếp tục nối phiên nhau lan tỏa ra mọi miền, đưa đến thắng lợi trong đấu tranh và gữ gìn độc lập dân tộc

- Qua đó có thể thấy rằng, suốt 1000 năm bắc thuộc, tuy người Việt mất nước nhưng không hề mất làng, cũng như không hề mất đi cái nôi truyền thống dân tộc

Khách vãng lai đã xóa
Trịnh Long
10 tháng 1 2020 lúc 21:10

-Đứng đầu chính quyền làng, xã lúc đó là người Việt (nòng cốt chủ yếu duy trì bức tường thành vững chắc cho nền văn hóa của nhân dân ta)

-Tinh thần yêu nước nổi dậy đấu tranh chống ngoại xâm

-Vẫn tiếp tục thựac hiện các phong tục tập quán như nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình

-Việt hóa các yếu tố Trung Hoa để phát triển.

Khách vãng lai đã xóa
Trần Thị Minh Hằng
10 tháng 1 2020 lúc 21:17

- Làng xã như một quốc gia thu nhỏ, tính chất "nửa kín nửa hở", tính tự trị tương đối.

- Trong làng chúng ta có lãnh đạo là người Việt.

- Chúng ta lưu giữ những tập tục, phong tục cổ truyền trong đó.

- Chúng ta sinh hoạt, giữ gìn tiếng nói, truyền cho con cháu ngôn ngữ của chúng ta.

- Các yếu tố văn hóa Hán vào làng xã đều bị biến đổi, những yếu tố không phù hợp chúng ta loại trừ (chống Hán hóa), những yếu tố thích hợp chúng ta không tiếp thu hoàn toàn mà biến đổi nó để phù hợp với văn hóa Việt.

- Trong làng xã, ý thức dân tộc tiếp tục định hình, phát triển, lòng yêu nước, tính tự chủ ngày càng nâng cao.

- Thậm chí một số người Hán vào sinh sống bị đồng hóa ngược.

Chính quyền phương Bắc không thể với tay cai trị trực tiếp xuống tận làng xã, phong tục Trung Hoa không thể đồng hóa ta trong làng xã, chính quyền làng xã do dân ta nắm giữ do đó ta bảo vệ được làng, giữ được làng, làm tiền đề ta tiến lên giải phóng nước.

Khách vãng lai đã xóa
Thư Phạm
Xem chi tiết
Khánh Linh
10 tháng 1 2020 lúc 19:40

-Đứng đầu chính quyền làng, xã lúc đó là người Việt (nòng cốt chủ yếu duy trì bức tường thành vững chắc cho nền văn hóa của nhân dân ta)

-Tinh thần yêu nước nổi dậy đấu tranh chống ngoại xâm

-Vẫn tiếp tục thựac hiện các phong tục tập quán như nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình

-Việt hóa các yếu tố Trung Hoa để phát triển

Khách vãng lai đã xóa
Trịnh Long
10 tháng 1 2020 lúc 21:21

Trong hơn 1000 năm Bắc Thuộc, bọn giặc phương Bắc thủ đoạn dùng đồng hóa nhằm mai một dân tộc Việt Nam, với mục đích duy nhất sát nhập lãnh thổ nước ta vào bản đồ Trung Quốc, tuy nhiên sự thật lịch sử đã khẳng định, dân tộc Việt Nam kiên cường bất khuất đã đánh bại hoàn toàn chế độ thống trị hà khắc suốt 1000 nghìn của giặc Bắc, giành lại chủ quyền độc lập

- Nguyên nhân cơ bản đưa đến thắng lợi trong cuộc chiến đấu nói chung và chống đồng hóa nói riêng đều bắt nguồn từ làng xã

- Làng, xã là cái nôi của mọi nên văn hóa, truyền thống, đây là nơi ấm ủ bao mầm sống tương lai, bao nét đẹp văn hóa của dân tộc, từ lãng xã sẽ lan tỏa khắp mọi miền, dẫu giặc Bắc có đồng hòa thế nào , có làm thay đổi ra sao, nhưng với cái nôi làng xã giữ vừng thì ắt hẵn dân tộc Việt vẫn giữ vừng cái cốt cách thanh cao vốn có

- Ngoài ra trong quá trình đồng hóa, với những chủ quan kinh thường, giặc Bắc không động đến làng xã mà chỉ tập trung vào các vùng kinh đô, vì thế Làng xã vẫn giữ được nét văn hóa không bị mai mốt

- Từ làng xã nền văn hóa dân tộc đó tiếp tục nối phiên nhau lan tỏa ra mọi miền, đưa đến thắng lợi trong đấu tranh và gữ gìn độc lập dân tộc

- Qua đó có thể thấy rằng, suốt 1000 năm bắc thuộc, tuy người Việt mất nước nhưng không hề mất làng, cũng như không hề mất đi cái nôi truyền thống dân tộc

Khách vãng lai đã xóa
Trần Thị Minh Hằng
30 tháng 1 2020 lúc 22:28

Về chính trị:

- Người Hán nắm quyền đến cấp huyện, làng xã do người Việt đứng đầu.

- Có thể do tâm lý người Hán, họ đồng hóa được Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử nên họ nghĩ có thể đồng hóa người Âu Lạc như vậy.

Về văn hóa

- Trong làng xã, văn hóa Việt tiếp tục tồn tại và phát triển.

- Tổ tiên chúng ta đã chống các yếu tố Hán hóa trong làng xã chúng ta.

- Các yếu tố Hán phù hợp, có thể học tập, chúng ta không tiếp nhận dập khuôn mà Việt hóa để phù hợp.

- Một số người Hán vào sinh sống đều bị đồng hóa ngược vào văn hóa Việt.

Về cư dân:

- Cư dân trong làng xã đều là người Việt, hậu duệ của Âu Lạc.

Về tư tưởng:

- Ý thức cộng động tộc Việt, bài trừ người Hán ngày càng phát triển.

- Ý thức dân tộc, quốc gia dân tộc độc lập riêng ngày càng phát triển, lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu dân tộc của mình ngày càng lớn mạnh.

Khách vãng lai đã xóa
T. Hiền
Xem chi tiết
❤ ~~ Yến ~~ ❤
24 tháng 1 2021 lúc 18:06

- Người Việt đã có ý thức về một nền văn hóa của riêng mình và có “ý thức dân tộc” trước khi bị đô hộ. Đó là ý thức hệ, tiếng nói (Việt - Mường), chữ viết và văn hoá riêng. Khi người Hán sang đô hộ còn bị đồng hoá ngược lại.

- Tinh thần dân tộc, kiên quyết đấu tranh của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của những thủ lĩnh xuất sắc như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan,... Nhân dân ta liên tục đứng lên đấu tranh lật đổ chính quyền đô hộ, quyết giành độc lập dân tộc.

- Sự bất ổn trong chính sách cai trị và đồng hóa từ phương Bắc. Suốt 1000 năm Bắc thuộc, ở Trung Hoa cũng có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội nên không thể tập trung cho việc đồng hóa người Việt.

- Sự khác biệt về môi trường sinh sống, khí hậu và thời tiết dẫn tới sự đặc thù của sản xuất. Người Hán sang nước ta cũng phải làm việc và sinh sống theo nhân dân ta để thích nghi với thời tiết, khí hậu,...

- Bộ máy cai trị của chính quyền phương Bắc chưa vươn tới làng - xã (ở cấp làng - xã vẫn do người Việt đứng đầu). Làng - xã là nơi khởi nguồn, lưu giữ và phát huy nền văn hóa đặc sắc của dân tộc

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
3 tháng 12 2017 lúc 12:50

Đáp án A
Nguyên nhân sâu sa để trong 1000 năm Bắc thuộc người Việt mất nước nhưng không mất dân tộc là do trước khi bị phong kiến phương Bắc xâm lược, đô hộ, nhân dân Âu Lạc đã có một nền văn minh riêng- văn minh Văn Lang- Âu Lạc. Nền văn minh này đã định hình những nét cơ bản về văn hóa Việt, con người Việt và đặt cơ sở cho sự hình thành các nền văn minh sau đó

Phương Huyền Hà
Xem chi tiết
vũ thị hiền thơ
Xem chi tiết
Hoàng Ngọc Quang Minh
24 tháng 4 2021 lúc 10:33

* Về kinh tế:

- Nông nghiệp: nhân dân đã biết sử dụng sức kéo của trâu bò, biết làm thủy lợi, trồng lúa một năm hai vụ.

- Thủ công nghiệp: Các nghề cổ truyền (nghề gốm, dệt vải,…) vẫn được duy trì, phát triển. Nghề rèn sắt phát triển.

- Thương nghiệp: Giao lưu buôn bán trong nước và với các nước xung quanh có sự khởi sắc.

* Về văn hóa:

- Chữ Hán và đạo Phật, đạo Nho, Đạo giáo cùng các luật lệ, phong tục của người Hán vào nước ta.

- Bên cạnh đó, nhân dân ta vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sống theo nếp riêng với những phong tục cổ truyền của dân tộc.

* Về xã hội: Xã hội phân hóa sâu sắc.

2 VÌ TỔ TIÊN TA RẤT YÊU NƯỚC VÀ CĂM HẬN CHÚNG 

vũ thị hiền thơ
Xem chi tiết

1.Những biến chuyển về kinh tế, văn hóa ở nước ta trong thời Bắc thuộc:

* Về kinh tế:

- Nông nghiệp: nhân dân đã biết sử dụng sức kéo của trâu bò, biết làm thủy lợi, trồng lúa một năm hai vụ.

- Thủ công nghiệp: Các nghề cổ truyền (nghề gốm, dệt vải,…) vẫn được duy trì, phát triển. Nghề rèn sắt phát triển.

- Thương nghiệp: Giao lưu buôn bán trong nước và với các nước xung quanh có sự khởi sắc.

* Về văn hóa:

- Chữ Hán và đạo Phật, đạo Nho, Đạo giáo cùng các luật lệ, phong tục của người Hán vào nước ta.

- Bên cạnh đó, nhân dân ta vẫn sử dụng tiếng nói của tổ tiên và sống theo nếp riêng với những phong tục cổ truyền của dân tộc.

* Về xã hội: Xã hội phân hóa sâu sắc.

2. 

- Sau hơn một nghìn năm đô hộ, tổ tiên ta vẫn giữ được tiếng nói và các phong tục, nếp sống với những đặc trưng riêng của dân tộc mình như: xăm mình, ăn trầu, nhuộm răng, làm bánh chưng, bánh giầy,…

- Ý nghĩa: Điều này chứng tỏ sức sống mãnh liệt của tiếng nói, phong tục, nếp sống của dân tộc không có gì có thể tiêu diệt được.

3. 

Sử cũ gọi giai đoạn lịch sử này là thời Bắc thuộc vì: Từ 179 đến thế kỉ X, dân tộc ta liên tiếp chịu sự thống trị, ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc.

4. 

* Bảng các tên gọi khác nhau của nước ta theo từng giai đoạn bị phương Bắc đô hộ.

Thời gian

Triều đại đô hộ

Tên gọi

Đơn vị hành chính

Năm 179 TCN

Nhà Triệu

 

Sáp nhập đất Âu Lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận: Giao Chỉ, Cửu Chân.

Năm 111 TCN

Nhà Hán

Châu Giao

Chia làm 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, gộp với 6 quận của Trung Quốc thành châu Giao.

Đầu thế kỉ III

Nhà Ngô

Giao Châu

Tách châu Giao thành Quảng Châu ( thuộc Trung Quốc) và Giao Châu (Âu Lạc cũ).

Đầu thế kỉ VI

Nhà Lương

Giao Châu

Chia nước ta thành: Châu Giao, Ái Châu, Đức Châu, Lợi Châu, Minh Châu và Hoàng Châu.

Năm 679 - thế kỉ X

Nhà Đường

An Nam đô hộ phủ

Gồm: Các châu Ki Mi, Phong Châu, Giao Châu, Trường Châu, Ái Châu, Diễn Châu, Hoan Châu, Phúc Lộc Châu.

5. 

* Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nhân dân ta trong thời kì Bắc thuộc vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt:

- Bắt nhân dân ta đóng nhiều thứ thuế vô lí, bắt nhân dân cống nộp sản vật quý hiếm như: ngà voi, đồi mồi,…

- Bắt những người thợ thủ công giỏi, khéo tay về nước.

- Đưa người Hán sang sống chung với người Việt để “thuần hóa” người Việt. Bắt dân ta theo phong tục tập quán của người Hán, học chữ Hán,...

- Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta,...

⟹ Những chính sách vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt.

* Chính sách thâm hiểm nhất: là muốn đồng hóa dân tộc ta về mọi mặt, biến nước ta trở thành một quận, huyện của chúng.

6. 

* Điều kiện tự nhiên:

- Địa hình: rừng núi rậm rạp với nhiều hang động, mái đá, nhiều sông suối, có vùng ven biển dài;

- Khí hậu: hai mùa nóng - lạnh rõ rệt, thuận lợi cho cuộc sống của cỏ cây, muông thú và con người.

* Dấu tích:

- Vào những năm 1960 - 1965 các nhà khảo cổ học đã lần lượt phát hiện được hàng loạt di tích của Người tối cổ.

- Ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), trong lớp đất chưa nhiều than, xương động vật cổ cách đây 40 - 30 vạn năm, người ta phát hiện được những chiếc răng của Người tôi cổ.

- Ở một số nơi khác như núi Đọ, Quan Yên (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai)..., người ta phát hiện được nhiều công cụ đá ghè đẽo thô sơ dùng để chặt, đập ; nhiều mảnh đá ghè mỏng... ở nhiều chỗ.

Răng của Người tối cổ ở hang Thẩm Hai (Lạng Sơn) và Rìu đá Núi Đọ (Thanh Hóa)

7. người tinh khôn: cao hơn, hộp sọ to hơn, bước đi thẳng, tay linh hoạt, không có lông, sống chỉ vài nhóm nhỏ, làm ra công cụ đẹp hơn. 

người tối cổ: thấp, hộp sọ nhỏ, bước đi nghiêng về phía trước, tay chưa được linh hoạt, có nhiều lông, sống theo bầy đàn, làm ra công cụ bằng đá chưa được sắc  đẹp.

8. 

* Bảng các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy ở Việt Nam

 

Thời gian

Địa điểm

Công cụ sản xuất

Người tối cổ

Cách ngày nay 40 - 30 vạn năm.

Hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn), núi Đọ, Quan Yên (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai),…

Công cụ được ghè đẽo thô sơ, không có hình thù rõ ràng.

Người tinh khôn

Cách ngày nay 3 - 2 vạn năm.

Mái đá Ngườm (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ) và nhiều nơi khác thuộc Sơn La, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An,…

Rìu bằng hòn cuội, được ghè đẽo thô sơ, có hình thù rõ ràng.

Người tinh khôn trong giai đoạn phát triển

Cách ngày nay 12.000 - 4.000 năm.

 

Hoà Bình, Bắc Sơn (Lạng Sơn), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ Long (Quảng Ninh), Bàu Tró (Quảng Bình).

Rìu đá, rìu có vai.

 9. - Các quốc gia cổ đại phương Đông: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc.

- Các quốc gia cổ đại phương Tây: Hi Lạp và Rô-ma.

10. 

 Các tầng lớp xã hội chính ở thời cổ đại bao gồm:- Ở phương Đông: quý tộc, nông dân công  và nô lệ.- Ở phương Tây: chủ nô và nô lệ.  

11. 

Các loại nhà nước thời cổ đại gồm:

- Ở phương Đông: nhà nước quân chủ chuyên chế do vua đứng đầu, vua nắm mọi quyền hành cả về vương quyền và thần quyền.

- Ở phương Tây: nhà nước dân chủ chủ nô, người dân tự do có quyền cùng quý tộc bầu ra những người cai quản đất nước theo thời hạn quy định.

12. 

* Bảng những thành tựu văn hóa thời cổ đại (phương Đông và phương Tây)

 

Phương Đông

Phương Tây

Về chữ viết, chữ số

- Tạo ra chữ tượng hình.

- Phép đếm đến 10, tính được số pi bằng 3,16.

- Hệ chữ cái a, b, c.

Về các khoa học

- Thiên văn học: sáng tạo ra lịch (Âm lịch), biết làm đồng hồ đo thời gian.

 

- Thiên văn học: sáng tạo ra lịch (Dương lịch).

- Đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực toán học, thiên văn, vật lí, triết học, lịch sử, địa lí,... với những nhà khoa học nổi tiếng như Ta-let, Pi-ta-go, Ơ-cơ-lít, …

- Văn học: có những bộ sử thi nổi tiếng như I-li-at, Ô-đi-xê của Hô-me, những vở kịch thơ độc đáo Ô-re-xti, Ơ-đíp làm vua, ...

Về các công trình nghệ thuật

Kim tự tháp cổ ở Ai Cập, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà,...

Đền Pác-tê-nông ở A-ten, tượng thần Vệ nữ ở Mi-lô,..

13. 

Những điều kiện dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc:

- Vùng cư trú: ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn dần dần hình thành những bộ lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế.

- Cơ sở kinh tế: Sản xuất phát triển. Việc mở rộng nghề nông trồng lúa ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn gặp nhiều khó khăn. Cần có người chỉ huy, đứng ra tập hợp nhân dân chống lụt lội, bảo vệ mùa màng.

- Các quan hệ xã hội: có sự phân chia giàu, nghèo. Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo nảy sinh và ngày càng tăng thêm.

- Ngoài ra, còn do nhu cầu mở rộng giao lưu và tự vệ giữa các bộ lạc với nhau.

Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
11 tháng 3 2018 lúc 17:24

Chọn đáp án: C

Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
24 tháng 11 2018 lúc 12:03

“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, chứ không chịu làm nô lê” là đoạn trích trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.