NHẬT RẠNG HƯƠNG TRẦN XÁ
VỌNG SƠN QUANG VÂN PHỦ
NGHI THỊ LI HƯƠNG CỐ
GIANG THỦY MÃN THUYỀN LAI (TƯỜNG CHÂU) ĐỐ AI DỊCH NGHĨA BÀI THƠ CỦA TÔI
giải nghĩa và phân loại từ ghép hán viết sau
giang hải, sơn thủy, phong thủy, phong gia, phong nguyệt, thủy thượng,cố hương, vọng địa, hồi hương,long mã,chiến thắng,thi nhân, gia chi, giang đại
mk cần gấp vì chiều mk học rùi mn giúp mk nhé.thanks
- giang hải: sông biển
- sơn thủy: non nước
- phong thủy: hướng gió, hướng nước.
- phong gia (gia phong chứ nhỉ?): nề nếp, lối sống của gia đình.
- phong nguyệt: gió trăng, chỉ thú vui ngao du
- thủy thượng: nước đầu nguồn
- cố hương: quê cũ
- vọng địa: ngắm (nhìn) đất.
- hồi hương: trở lại quê hương
- long mã: con ngựa (quý)
- chiến thắng: giành thắng lợi
- thi nhân: nhà thơ
- gia chi: gia: nhà, chi: bộ phận, chân tay. => gia chi: chỉ thế hệ gia đình, nhánh gia đình.
- giang đại: sông lớn
A. Hoạt động khởi động:
Đọc câu thơ sau và cho biết câu thơ nói đến nội dung cảm xúc gì:
Nguyệt thị cố hương minh
( Trăng là ánh sáng của quê nhà)
( Đỗ Phủ, Được thư em Xá)
Câu thơ thể hiện tình cảm của tác giả lúc ngắm trăng và nhớ đến quê nhà của mình.
bài thơ thể hiện tình cảm nhớ quê hương của tác giả khi ngắm trăng
Đọc câu thơ sau và cho biết câu thơ nói đến nội dung cảm xúc gì:
Nguyệt thị cố hương minh
( Trăng là ánh sáng của quê nhà )
( Đỗ Phủ, Được thư em Xá)
câu thơ nói đến nội dung cảm xúc : nhớ đến ánh trăng quê nhà
theo mình chỉ đơn giản là nhớ đến quê nhà khi ngắm trăng
nội dung:
tả ánh trăng ở quê nhà rất sáng
cảm xúc:
nhớ quê, nhớ nhà, nhớ ánh trăng... của tác giả
Đọc câu thơ sau và cho biết câu thơ nói đến nội dung cảm xúc gì:
Nguyệt thị cố hương minh
( Trăng là ánh sáng của quê nhà )
( Đỗ Phủ, Được thư em Xá)
Tuy là một bài thơ ngắn chỉ 4 câu nhưng ở Trung Quốc hiểu tường tận bài thơ này vẫn có những ý kiến chưa thống nhất. Trước hết về thời gian sáng tác bài thơ này các sách đều ghi là “không xác định” chỉ biết Lý Bạch ban ngày đi chơi, ban đêm ngủ nhìn trăng sáng rồi nhớ quê hương như tứ một câu thơ của Đỗ Phủ “nguyệt thị cố hương mình” .Bài thơ mặc dù tác giả, cảnh và người là Trung Quốc nhưng nó được người dạy, học trong nhà trường phổ thông Việt Nam cảm nhận sâu sắc, có tác dụng trong việc giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước trong mỗi người Việt Nam.
Thơ Đường là thành tựu tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Mọi phương diện của nó đều đạt đến trình độ cổ điển. Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc. Do đó nó rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy hiểu được nó một cách thâu đáo là một việc khó chưa nói đến việc giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được. Tôi nghĩ đó là vấn đề mà giáo viên đứng lớp như chúng tôi rất trăn trở. Với kiến thức hạn hẹp và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo đồng nghiệp tôi có một số vấn đề muốn trao đổi về việc giảng dạy thơ Đường. Thơ Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, .. của con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Thành tựu trên các phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Thơ Đường là sự kế thừa và phát triển cao độ thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nó là tập “Đại thành” cho nên những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc rất tiêu biểu. Thơ Đường rất phong phú cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhưng điều tôi trình baỳ ở đây chỉ là vài suy nghĩ của cá nhân về “một số phương pháp giảng dạy thơ Đường ở trường THPT”. Bộ phận văn học nước ngoài nói chung và thơ Đường nói riêng ở trường THPT là một mảng khó dạy đối với giáo viên. ở trường ĐH việc giảng dạy được chuyên môn hoá cao độ. Mỗi người chỉ phụ trách mỗi nền văn học. Thậm chí là một giai đoạn của chương trình nên có điều kiện đi sâu nắm bắt được chương trình Trong khi đó ở các trường THPT - chúng tôi những người giáo viên Ngữ văn phải đảm đương văn học Việt Nam lẫn văn học nước ngoài, vì vậy sẽ còn nhiều lúng túng khi giảng dạy cho học sinh đặc biệt với một giáo viên vừa ra trường như tôi làm sao có thể làm chủ văn học nước ngoài, mà đặc biệt là thơ Đường. Hàng rào ngôn ngữ đã là một trở ngại. Đã thế chương trình Ngữ văn THPT trong những năm gần đây có nhiều đổi mới qua đợt cải cách giáo dục, phân môn Văn học có nhiều bài khó nhưng chỉ dạy trong một tiết, thậm chí hai bài dạy chỉ trong một tiết...nên lại càng thêm khó khăn.. Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đã nêu trên và đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Tất nhiên giáo viên phải tìm hiểu bổ sung thêm kiến thức từ các sách nghiên cứu, đi sâu vào bài giảng để soạn giáo án và giảng dạy hướng dẫn học sinh học tập được tốt hơn. Thơ Đường là thành tựu rực rỡ nhất cuả văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) là một trong những thành tựu tiêu biểu của thơ cổ điển Trung Quốc, đồng thời là của nhân loại. Đối với lịch sử văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THPT, thơ Đường vừa là sản phẩm tinh thần vừa xa về khoảng cách thời gian vừa xưa về mặt ngôn từ..Nhưng học thơ Đưòng không phải chỉ chiêm ngưỡng các sản phẩm “cổ vật” mà chúng ta vẫn hiểu được tiếng nói của người xưa và vẫn rung cảm trước những tâm hồn cao đẹp. Việc đưa thơ Đường vào chương trình dạy học ở trường phổ thông không phải là vấn đề mới lạ với chúng ta. Song cái mói mà chúng ta thấy được đối tượng tiếp nhận. Sách giáo khoa Ngữ văn trung học đã đưa vào chương trình một lượng không nhiều, song tiếp nhận thơ Đường đối với lứa tuổi trung học thì quả là điều không hề đơn giản. Trong khi thơ Đường vốn rất hàm súc, nói ít gợi, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Chính vì vậy người giáo viên là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ Đường - một thành tựu của thơ ca nhân loại. II. NỘI DUNG: 1. Dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt, đối chiếu dịch nghĩa, dịch thơ với phiên âm: Để giúp các em hiểu được văn bản, phân tích và cảm thụ văn bản thì giáo viên giúp học sinh dịch nghĩa từ phiên âm sang tiếng Việt. Hiểu nghĩa từng chữ trong nguyên bản, sau đó dịch nghĩa từng câu. Từ đó cho học sinh đối chiếu bản phiên âm dịch nghĩa và dịch thơ. Như vậy học sinh sẽ tích luỹ được vốn Hán - Việt,hiểu được nghĩa gốc cũng là điều kiện để xuất phát khám phá ra nội dung bên trong. Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “Vọng lư sơn bộc bố” của Lí Bạch. “Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Dan khan bộc bố quải tiền xuyên” (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trônng dòng thác trước song này) Qua sự đối chiếu, giáo viên cho học sinh thấy được bản dịch thơ chưa sát nghĩa. Ơ câu một đã bỏ mất từ “sinh” làm cho quan hệ nhân quả của câu thơ trở nên mờ nhạt đi, làm cho tích chất gợi cảm không còn. Núi Hương Lô được mặt trời chiếu sáng làm nảy sinh làn khói tía, là một cảnh tượng hùng vĩ, rực rỡ và lộng lẫy. Với động từ “sinh” này dường như khi ánh mặt trời xuất hiện thì mọi vật sinh sôi nảy nở. Ơ câu hai, bản dịch thơ bỏ mất từ “quải”(treo) nên ấn tượng cho hình ảnh dòng thác gợi ra trở nên mờ nhạt và ảo giác về dải Ngân hà ở câu cuối cũng trở nên thiếu cơ sở. Nếu dịch được từ “quải” thì sẽ làm cho dòng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều. Ở bài: “Tại Lầu Hoàng Hạc Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu’’ (Bạn từ Lầu Hạc lên đường), bản dịch nghĩa là “bạn cũ” nhưng ở phần dịch thơ chỉ còn là “bạn”. Điều đó chứng tỏ bản dịch thơ chưa chuyển tải hết ý thơ. Thơ xưa hay nói tới cố, cũ với tất cả sự gắn bó hoài niệm. Đó là cố hương, cố quốc, cố tri… và đây là “cố nhân” nó gói ghém trong đó bao nhiêu tình cảm quý trọng, thương mến của tác giả đối với Mạnh Hạo Nhiên. Chắc chắn hai người đã có một tình bạn tri ân, tri kỷ lắm rồi. Thực ra “Cô phàm” mà dịch là “cánh buồm”, “bích không tận” dịch là “bầu không” thì sự lẻ loi của cánh buồm và màu xanh bao la gợi cảm đã bị đánh mất. Chứng tỏ bản dịch thơ chỉ thông báo cho biết sự việc đã xảy ra còn nguyên tác với cách miêu tả đối lập vẻ như nhỏ bé, cô đơn của cánh buồm, với sự mênh mông, choáng ngợp của dòng sông, vẻ tỉnh lặng của màu xanh dòng Trường Giang. Trong bài thơ “Thu hứng”: Hai câu thơ đầu tả khung cảnh thu ở Quỳ Châu với các hình ảnh: sương móc trắng xoá làm tiêu điều, tang thương cả rừng phong. Từ núi Vu đến kẽm Vu, hơi thu hiu hắt, ảm đạm. (Bản dịch thơ đã chưa chọn ý hai từ “điêu thương” và “ tiêu sâm”). Tác giả miêu tả cảnh thu ở ba chiều không gian. + Chiều dài, rộng: Rừng phong + Chiều cao: núi Vu + Chiều sâu: Kẽm Vu (bản dịch thơ đã bỏ mất “Vu giáp”) Điều đó cho thấy tính chất tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan toả khắp không gian, khác với không khí mơ màng của mùa thu thường thấy trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở bài “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch “Sáng tiền minh nguyệt quang Nghi thi địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặc đất phủ sương) thì hai câu đầu nguyên văn chỉ có một động từ “nghi”(ngỡ) nhưng trong bản dịch thơ lại thêm hai động từ “rọi” và “phủ” làm cho chủ thể trữ tình bị mờ nhạt nên nhiều người lầm tưởng hai câu đầu chỉ chủ yếu là thuần tuý tả cảnh. 2. Giới thiệu kỹ thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời cuả tác phẩm: Phân tích thơ trước hết phải bám vào ngôn từ của tác phẩm, tuy nhiên có nhiều trường hợp hiểu thân thế của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm có thể giúp ích rất nhiều trong việc phân tích, cảm thụ cũng như xác định ý nghĩa giá trị của tác phẩm. Ví dụ: Đỗ Phủ làm thơ khi 7 tuổi, để lại trên 1400 bài thơ. “Thu hứng” là bài thơ mở đầu cho chùm thơ thu gồm 8 bài. Bài thơ được coi như “cương lĩnh sáng tác” cho 7 bài sau. Thời gian này Đỗ Phủ từ quan nhưng không về quê nhà được vì Hà Nam là nơi tranh chấp lúc ở Thành Đô lúc lại Quỳ Châu, thương tiếc và lo lắng, với “Nỗi lòng quê cũ” nhà thơ đã viết chùm “Thu hứng” (8 bài).Hoặc là Thôi Hiệu qua tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, đỗ tiến sĩ năm 725. Và một ngày nọ ông đặt chân tới góc thành Tây Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, ông thả bộ lên Lầu Hoàng Hạc. Bài thơ này tức cảnh sinh tình. Có thể xem bài thơ Hoàng Hạc Lâu là một “quả lạ trái mùa”. Trong tác phẩm “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Ông đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm dưới triều vua Đường Huyền Tông . Từ lúc trai trẻ đến năm 744 (tức là 86t), ông mới cáo quan trở về quê hương trong sự lưu lưyến của vua và bạn bè ở kinh thành. Với nhan đề “Ngẫu thư” (ngẫu nhiên viết) tức là tác giả không chủ định làm thơ ngay lúc đặt chân đến quê nhà, không chủ đích viết nhưng sao lại viết, bởi vì ở cuối bài thơ tác giả đã bị bọn trẻ làng gọi là là “khách”. Đó là “cú sốc” với tác giả nhưng lại là duyên cớ để tác giả viết bài thơ này. Ân đằng sau duyên cớ đó là tình cảm yêu quê hương luôn thường trực và bất cứ lúc nào cũng được thổ lộ. Hoặc với nhà thơ Lí Bạch, giáo viên dẫn dắt giới thiệu: Ông là người thông minh, biết làm thơ từ thưở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm hồn phóng khoáng, tự do, hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ. 3. Chọn lọc một số chi tiết để phân tích và bình giá: Khi phân tích nên chọn một số chi tiết để bình giá và nâng cao Chẳng hạn trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư), chúng ta phải phân tích kĩ từ “quãi”(treo). Nhìn dòng thác từ xa, tác giả thấy như tấm lụa đào treo trước dòng sông, người Trung Quốc coi từ “quãi” là “nhãn tự”, bởi vì nó đã biến cảnh vật từ động sang tĩnh, dóng thác ầm ầm đổ xuống núi đã biến thành một dãi lụa trắng rũ xuống yên ắng và bất động, được treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông, một vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng kì ảo., và tráng lệ. Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ”nghi” (ngỡ), “lạc” (rơi xuống) và hình ảnh của dãi Ngân hà. Ngỡ là biết sự thật không phải vậy (làm sao vừa có cả mặt trời có cả dòng ngân hà) mà vẫn tin là có thật. Chữ “lạc” cũng dùng rất đắt vì dòng ngân hà vốn nằm theo chiều vắt ngang qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng. Trong bài thơ, “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu khi phân tích chúng ta chú ý đến chữ “sầu” kết thúc bài thơ nhưng mở ra một tâm trạng, một nỗi lòng, một nỗi sầu dằng dặc. Từ “sầu” diễn tả nỗi sầu triền miên, nặng nề của người khách xa nhà trước cảnh mây khói mịt mùng. Khi phân tích bài thơ, “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị, chúng ta chú ý phương diện miêu tả tiếng đàn. Tác giả miêu tả ba lần gảy đàn của người ca nữ một cách hợp lý. + Lần đầu: Không tả cụ thể vì nghe xa. + Lần thứ hai: Tả nhiều, tả kỷ vì giữa nhà thơ và người nghệ sỹ đã tìm thấy tiếng nói tri âm, đồng cảm sâu sắc: người nghe quên mình mà người gảy đàn cũng hết mình. + Lần thứ ba: khi tâm tư đã quá xúc động thì giọt nước mắt có giá trị “thanh lọc” đã thay cho mọi lời miêu tả, ngợi ca. Hoặc trong bài “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương cần phân tích kỹ câu” “Hương âm vô cải mấn mao tồi” (tiếng nói không thay đổi, tóc mai đã rụng) và nghệ thuật đối. Nói cái thay đổi và cái không đổi để khẳng định sự bền bĩ chung thuỷ trong tình cảm của con người đối với quê hương. Và cũng cần phân tích kĩ tình huống khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn lại bị gọi là khách từ đâu đến để thấy được tâm trạng của nhà thơ.Hồi hương ngẫu thư 4. So sánh đối chiếu văn bản với các thi liệu thơ phương Đông. Đơn cữ trong bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” khi phân tích câu một làm khung nền cho bức tranh toàn cảnh, trước khi miêu tả vẻ đẹp của dòng thác nước. Nên so sánh đối chiếu với hai câu thơ của nhà sư Tuệ Viên(trước Lí Bạch 300 năm): “Khí bao trùm lên Hương Lô mịt mù như sương khói”. Cái mới của Lí Bạch là miêu tả vẻ đẹp của dòng Hương Lô dưới những tia nắng mặt trời, làn hơi nước phản quang, ánh sáng mặt trời chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Sự thật hơi khói đã có từ trước, tồn tại thường xuyên song dưới ngòi bút của Lí Bạch, với động từ :sinh” đã làm cho khung cảnh trở nên huyền ảo Hoặc có thể so sánh với các bài thơ khác có chủ đề phổ biến “Vọng nguyệt hoài hương”như của Đỗ Phủ: “Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hương minh” ( Sương đêm nay trắng xoá, Trăng là ánh sáng của quê nhà) Bạch Cư Dị: “Công khang mình nguyệt ưng thuỳ lệ Nhất phiến hương tâm ngũ xứ đồng” ( Xem trăng sáng có lẽ cùng rơi lệ Một mảnh tình quê , năm anh em ở năm nơi đều giống nhau) III. KẾT LUẬN: Thơ Đường là đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc, là thành tựu của văn học nước ngoài có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nền văn học Việt Nam, đặc biệt thể thơ Đường luật này trở thành một thể thơ sáng tác quan trọng và quen thuộc của người Việt Nam ta. Thông qua những bài thơ Đường, nó đã góp phần hình thành ở con người niềm trân trọng mến yêu những vẻ đẹp dịu dàng trong sáng, những khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, đồng thời qua thơ Đường giúp con người biết cảm thông trước những đau khổ của đồng loại, biết phẫn nộ trước những điều phi nghĩa bất công. Bởi vậy học và đọc thơ Đường chúng ta càng cảm thấy thú vị. Văn học nghệ thuật nói chung, thơ Đường nói riêng đã góp phần hình thành tính nhân văn của con người.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
a) Đọc lại bản dịch Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lí Bạch, dựa vào kiến thức đã học ở Tiểu học, hãy timg những từ đồng nghĩa với mỗi từ: rọi, nhìn
b) Từ nhìn trong bài Cảm nghĩ đêm thanh tĩnh có thể hiểu là " đưa mắt về một hướng nào đó để thấy". ngoài nghĩa đó ra, từ nhìn còn có những nghĩa sau:
-Để mắt tới, quan tâm tới
-Xem xét để thấy và biết được
a) rọi: chiếu, soi
nhìn: trông, ngó, xem,...
b) - ngó, ngóng,...
- (ko biết)
a). Rọi: chiếu,....
Nhìn: ngó, xem, ngắm,...
b). Để mắt, quan tâm tới: trông, dòm, ngó, quan sát,...
Xem để tháy và biết được: coi, xem, liếc,...
Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài hồ hương ngẫu thư và những điiều cảm nhận được qua việc học bài thơ hãy so sánh hai bản dịch thơ của phạm sĩ vĩ và trần trọng san
Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài "Hồi hương ngẫu thư" và những điều đã cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.
- Các dịch giả Của hai bài thơ đã cố gắng chuyển tải được tâm trạng, cảm xúc vui, buồn , ngỡ ngàng của một nhà thơ khi về thăm quê cũ.
Mỗi bản dịch đều có cái hay và cái hạn chế riêng:
+ Bài 1 ( dịch giả Phạm Sĩ Vĩ )
Câu 1: làm rõ phép đối chỉnh ( đối ý, đối lời, chỉnh về từ loại và ngữ pháp)
Câu 2 : dịch còn thô và chưa thoát hồn thơ.
Câu 3 : rõ đối tượng ( trẻ con ), nhưng chưa đúng ý.
Câu 4 : chỉ có động từ "hỏi" mà chưa có động từ "cười".
+ Bài 2 (dịch giả Trần Trọng San )
Câu1 : phép đối chưa thật chỉnh.
Câu 2 : dich thoát , dịch có hồn.
Câu 3: chưa chỉ ra được đối tượng (trẻ con) .
Câu 4: dịch đủ hai động từ " cười"và "hỏi".
Căn cứ vào bản dịch nghĩa bài Hồi hương ngẫu thư và những điều cảm nhận được qua việc học bài thơ, hãy so sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.
- Các dịch giả Của hai bài thơ đã cố gắng chuyển tải được tâm trạng, cảm xúc vui, buồn , ngỡ ngàng của một nhà thơ khi về thăm quê cũ.
Mỗi bản dịch đều có cái hay và cái hạn chế riêng:
+ Bài 1 ( dịch giả Phạm Sĩ Vĩ )
Câu 1: làm rõ phép đối chỉnh ( đối ý, đối lời, chỉnh về từ loại và ngữ pháp)
Câu 2 : dịch còn thô và chưa thoát hồn thơ.
Câu 3 : rõ đối tượng ( trẻ con ), nhưng chưa đúng ý.
Câu 4 : chỉ có động từ "hỏi" mà chưa có động từ "cười".
+ Bài 2 (dịch giả Trần Trọng San )
Câu1 : phép đối chưa thật chỉnh.
Câu 2 : dich thoát , dịch có hồn.
Câu 3: chưa chỉ ra được đối tượng (trẻ con) .
Câu 4: dịch đủ hai động từ " cười"và "hỏi".
So sánh điểm giống nhau và khác nhau về chủ đề và phương thức biểu đạt của hai bài thơ: "Tĩnh dạ tứ" và "Hồi hương ngẫu thư".
1. Bài tập 2
a, Giống nhau:
- Chủ đề: tình yêu quê hương sâu nặng .
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm .
b, Khác nhau
- Cách thức thể hiện chủ đề :
+ Bài "Tĩnh dạ tứ": từ nơi xa nghĩ về quê hương.
+ Bài "Hồi hương ngẫu thư": từ quê hương nghĩ về quê hương .
- Phương thức biểu cảm :
+ Bài "Tĩnh dạ tứ": biểu cảm trực tiếp .
+ Bài " Hồi hương ngẫu thư": biểu cảm gián tiếp .
Câu 1: Phương thức biểu đạt là biểu cảm qua tự sự.
Câu 2: Phương thức biểu đạt là biểu cảm qua miêu tả.
Câu 4. Sự khác nhau về giọng điệu biểu đạt ở hai câu trên và hai câu dưới
: - Hai câu trên: “Trẻ đi, già trở lại nhà Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu” Giọng điệu miêu tả, tự sự và thoáng chút ngậm ngùi, tâm sự của người con xa quê lâu ngày nay mới được trở về
. - Hai câu dưới: “Trẻ con nhìn lạ không chào Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi? Giọng điệu hóm hỉnh, bi hài:
+ Sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ.
+ Hoàn cảnh trớ trêu, bị gọi là khách ngay trên quê nhà.
+ Cảm giác bơ vơ, lạc lọng khi trở về quê không còn người thân thích, quen biết, nỗi ngậm ngùi đau xót.
+ Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.
Hai câu thơ Đường sau nằm trong bài thơ nào ?
“…Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
A. Phong Kiều dạ bạc
B. Tịnh dạ tứ
C. Vọng Lư sơn bộc bố
D. Hồi hương ngẫu thư.
Tìm 5 kiểu câu: Nghi vấn, cầu khiến, cảm thán, trần thuật, phủ định, trong các văn bản giới hạn trên? Nêu đc ý nghĩa và tác dụng của các kiểu câu đó?
Cụ thể: Văn bản Nhớ Rừng: khổ 3+5; Ông đồ: khổ thơ 3+5; Quê hương: khổ thơ cuối; Khi con tu hú: khổ thơ cuối; Vọng nguyệt (Ngắm trăng); Hịch tướng sĩ; Bàn luận về phép học
VD:Ong Do:
=>-NGuoi thue viet nay dau?->hoi
=>Hon o dau bay gio?->hoi
-Cac cau con lai la cau tran thuat,phu dinh
+)Cau tran thuat->mieu ta
+)Cau phu dinh->Khang dinh ko thay ong do