Theo em, truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy nói lên điều gì?
Theo em, truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy nói lên điều gì?
Truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy nói về việc sau nhiều lần đánh không được nước ta, Triệu Đà đã dùng mưu kế: giả vờ xin hòa và tìm cách chia rẽ nội bộ nước ta. Do nhẹ dạ, cả tin, cha con An Dương Vương đã mắc mưu kẻ thù, chịu để mất nước.
Theo em , truyện Mỵ Châu-Trọng Thủy nói lên điều gì ?
- Câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy phản ánh điều gì về sự thất bại của nhà nước Âu Lạc.
- Bài học kinh nghiệm của bản thân trong hpcj tập và cuộc sống
Truyện Mỵ Châu- Trọng Thủy phản ánh sự tham lam của Triệu Đà và sự mê muội của Mỵ Châu cùng với những yếu tố li kì đưa An Dương Vương và cái kết không thể ngờ đến. Qua đây, em rút ra kinh nghiệm cần phải xem xét sự việc một cách kĩ lưỡng trước khi đưa ra kết quả và quyết định điều đó.
Câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thủy phản ánh việc Mỵ Châu mê trai bán nước.
1)Theo em, truyện Trọng Thủy-Mỵ Châu nói lên điều gì?
2)Em thử nêu những điểm giống nhau và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc
1) Theo em, truyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ đã cho nhân dân ta 1 bài học kinh nghiệm vô cùng lớn :
- Phải luôn cảnh giác với kẻ thù
- Phải xây dựng khối đoàn kết dân tộc, dựa vào sức mạnh toàn dân để đánh giặc
2) Những điểm giống và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc :
- Giống nhau :
+ Có tổ chức từ trên xuống dưới, lấy làng, chạ làm cơ sở (đơn vị hành chính).
+ Tuy còn đơn giản nhưng đã là tổ chức chính quyền cai quản cả nước
(quản lí).
- Khác nhau :
+ Thời Âu Lạc, quyền hành của nhà nước đã cao hơn và chặt chẽ hơn.
+ Vua có quyền thế hơn trong việc trị nước.
+ Sự phân biệt giữa tầng lớp thống trị và nhân dân sâu sắc hơn.
P thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù khi đọc những thông tin trên mạng nói xấu Đảng, Nhà nước ta. P đã thể hiện điều nào dưới đây trong việc tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền?
A. Trách nhiệm của công dân
B. Nghĩa vụ của công dân
C. Lí tưởng của công dân
D. Trí tuệ của công dân
M thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù khi đọc những thông tin trên mạng nói xấu Đảng, nhà nước ta. M đã thể hiện điều nào dưới đây trong việc tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền?
A. Trí tuệ của công dân.
B. Nghĩa vụ của công dân.
C. Lí tưởng của công dân.
D. Trách nhiệm của công dân.
Câu nào dưới đây là không đúng khi nói về hiện tượng dính ướt và hiện tượng không dính ướt của chất lỏng?
A. Vì thủy tinh bị nước dính ướt, nên giọt nước nhỏ trên mặt bản thủy tinh lan rộng thành một hình có dạng bất kì.
B. Vì thủy tinh bị nước dính ướt, nên bề mặt của nước ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
C. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt, nên giọt thủy ngân nhỏ trên mặt bản thủy tinh vo tròn lại và bị dẹt xuống do tác dụng của trọng lực.
D. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt, nên bề mặt của thủy ngân ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
Chọn D.
+ Khi chất lỏng tiếp xúc với chất rắn thì tùy theo bản chất của chất lỏng và chất rắn mà có thể xảy ra hiện tượng dính ướt hoặc không dính ướt.
- Khi lực hút giữa các phân tử vật rắn và các phân tử chất lỏng mạnh hơn lực hút giữa các phân tử chất lỏng với nhau, thì có hiện tượng dính ướt.
- Khi lực hút giữa các phân tử vật rắn và các phân tử chất lỏng yếu hơn lực hút giữa các phân tử chất lỏng với nhau, thì có hiện tượng không dính ướt.
+ Sát mép chất lỏng với thành bình, mặt thoáng chất lỏng hơi bị cong gọi là mặt khum.
+ Nếu chất lỏng làm dính ướt thành bình thì mặt khum đó là mặt lõm, còn nếu chất lỏng không làm dính ướt thành bình thì mặt khum là lồi.
MÔN LỊCH SỬ : BÀI 12 : NƯỚC VĂN LANG.
1. Theo em , truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh nói lên hoạt động gì của nhân dân hồi đó ?
2. Sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí ( hình 31,32 trang 35 trong lịch sử 6 ) nói lên điều gì ?
3. Hãy liên hệ các vũ khí ấy với truyện Thánh Gióng.
4. Những lí do ra đời của nhà nước thời Hùng Vương là gì ?
5. Em có nhận xét gì về tổ chức của nhà nước đầu tiên ?
MÌNH CHUẨN BỊ HỘI GIẢNG BÀI NÀY , MONG MỌI NGƯỜI GIÚP ĐỠ .
Mình sẽ tick cho ạ . Cảm ơn nhiều .
1. Truyện cho chúng ta thấy từ thời xa xưa ông cha ta đã biết đắp đê (cụ thể là Thủy Tinh cho nước dâng cao bao nhiêu thì Sơn Tinh cho núi cao lên bấy nhiêu) để chống lại lũ lụt.
4, Những lí do ra đời nhà nước thời Hùng Vương:
- Sản xuất phát triển, cuộc sống định cư, sự xuất hiện các làng, chạ, bộ lạc.
- Do yêu cầu bảo vệ sản xuất vùng các sông lớn.
- Xã hội có sự phân chia giàu, nghèo.
- Mở rộng giao lưu và tự vệ.
5,Nhận xét về tổ chức nhà nước đầu tiên :
- Có tổ chức từ trên xuống dưới, lấy làng, chạ làm cơ sở (đơn vị hành chính).
- Tuy còn đơn giản nhưng đã là tổ chức chính quyền cai quản cả nước, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế, xã hội đất nước cũng như sự hình thành quốc gia - dân tộc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Câu nào dưới đây không đúng khi nói về hiện tượng dính ướt và hiện tượng không dính ướt của chất lỏng?
A. Vì thủy tinh bị dính ướt, nên giọt nước nhỏ trên mặt bàn thủy tinh lan rộng thành một hình có dạng bất kì.
B. Vì thủy tinh bị dính ướt, nên bề mặt của nước ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
C. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt, nên giọt thủy ngân nhỏ trên mặt bản thủy tinh vo tròn lại và bị dẹt xuống do tác dụng của trọng lực.
D. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt,nên bề mặt của thủy ngân ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
Câu nào dưới đây không đúng khi nói về hiện tượng dính ướt và hiện tượng không dính ướt của chất lỏng?
A. Vì thủy tinh bị dính ướt, nên giọt nước nhỏ trên mặt bàn thủy tinh lan rộng thành một hình có dạng bất kì.
B. Vì thủy tinh bị dính ướt, nên bề mặt của nước ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
C. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt, nên giọt thủy ngân nhỏ trên mặt bản thủy tinh vo tròn lại và bị dẹt xuống do tác dụng của trọng lực.
D. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt,nên bề mặt của thủy ngân ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
D. Vì thủy tinh không bị thủy ngân dính ướt,nên bề mặt của thủy ngân ở sát thành bình thủy tinh có dạng mặt khum lõm.
Ngày 13/4/1950, luật sư Nguyễn Hữu Thọ bị cảnh sát Sài Gòn bắt giam lần nữa, địch đưa ông lên giam tại Bản Giẳng, xã Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Em hãy cho biết địch đưa luật sư lên giam tại địa điểm trên với mưu đồ gì? Luật sư được trao trả tự do vào năm nào? Sau khi được trả tự do, luật sư làm gì và ở đâu?
Giúp mình đi mà, mình cần gấp lắm, mình sẽ tick cho
Tối ngày 19/3/1950, LS Nguyễn Hữu Thọ bị bắt giam vào khám Lớn. Ngày 27/3/1950, nhà cầm quyền đưa ông ra xét xử. Các luật sư nổi tiếng đã biện hộ cho ông. Tòa tuyên bố trả tự do tạm cho LS Nguyễn Hữu Thọ sau khi đóng 5.000 đồng thế chân. Địch ra lệnh đóng cửa các tờ báo có cảm tình với phái đoàn đại biểu các giới Thần chung, Tâm điểm, Ánh sáng… Phái đoàn đại biểu các giới in truyền đơn vạch rõ thủ đoạn của địch, vì LS Nguyễn Hữu Thọ cùng ký tên vào truyền đơn với những người khác, nên địch vin vào cớ này để bắt ông ngày 13/4/1950 và giam vào Khám Lớn.
Đến năm 1952, khi bộ đội ta tiến lên giải phóng Tây Bắc, chính quyền thực dân đưa Luật sư Nguyễn Hữu Thọ về giam ở Sơn Tây. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của Đoàn Luật sư Sài Gòn - Chợ Lớn và giới nhân sĩ, trí thức trong cả nước, tháng 11-1952, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được trả tự do.
Trở về Sài Gòn, mở lại văn phòng luật và tiếp tục đấu tranh với kẻ thù, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tham gia tổ chức nhiều hoạt động đấu tranh cách mạng đòi dân sinh, dân chủ. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng to lớn của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, ngày 15-11-1954, chính quyền Sài Gòn lại bắt giam và lưu đày ông ra miền núi Củng Sơn, Tuy Hòa, Phú Yên. Ông bị giam lỏng ở đây gần 7 năm, cho đến khi được lực lượng vũ trang của Khu ủy Khu V giải thoát. Tại Đại hội lần thứ nhất (tháng 2-1962) Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 3-1964, Đại hội lần thứ hai Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã bầu Luật sư làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến tháng 6-1969, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được cử làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bằng uy tín và tài năng, Luật sư, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã lãnh đạo quân và dân miền Nam giành nhiều thắng lợi to lớn, góp phần hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau khi thống nhất đất nước, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội các khóa VI, VII, VIII và được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 6-1976), Quyền Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 4-1980), Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng 7-1981). Tại Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận (họp từ ngày 31-1 đến ngày 4-2-1977), Luật sư được bầu làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 11-1988, Luật sư được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 8-1994, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã suy tôn Luật sư làm Chủ tịch danh dự Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với các cương vị của mình, Luật sư, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã dành nhiều thời gian, tâm huyết tìm hiểu thực trạng, tháo gỡ khó khăn trong công tác Mặt trận, đề xuất với Đảng và Nhà nước những cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm vun đắp, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng và phát huy vai trò Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam trong thời kỳ mới.
Nhưng không lâu sau đó, ngày 13-4-1950, Pháp lại bắt giam ông vì tội “phát tán truyền đơn bất hợp pháp”. Đồng bào cả nước một lần nữa lại đứng lên đấu tranh đòi trả tự do cho ông (lúc này, ông đã được bí mật kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương).
Thực dân Pháp đã đưa ông ra Bắc đi đày và quản thúc tại Bản Giẳng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, nơi “ngã ba biên giới” Việt Nam - Lào - Trung Quốc, nơi mà “một con gà gáy ba nước đều nghe”. Sau đó, khi quân đội ta tiến lên giải phóng Tây Bắc thì chúng đưa ông về giam ở Sơn Tây.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của Đoàn luật sư và nhân sỹ, trí thức yêu nước ở Sài Gòn- Gia Định, tháng 11-1952, ông được trả tự do và trở về Sài Gòn, mở lại văn phòng luật sư, tiếp tục đấu tranh với kẻ thù ngay tại sào huyệt của chúng.
Để ngăn chặn ảnh hưởng to lớn của ông, ngày 15-11-1954, chính quyền bù nhìn Sài Gòn đã bắt giam và lưu đày ông gần 7 năm ở Tuy Hòa và miền núi Củng Sơn, tỉnh Phú Yên.
Nguyễn Hữu Thọ là một trí thức yêu nước tiêu biểu, nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng trong nước và trên thế giới, một luật sư tài năng, đầy uy tín, một nhân cách lớn, một ngọn cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ông đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước như: Chủ tịch Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 2-1962), Chủ tịch Hội đồng cố vấn của chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam (tháng 6-1969), Phó chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1976). Sau khi Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng qua đời, ông giữ chức vụ Quyền Chủ tịch nước (từ tháng 4-1980 đến tháng 7-1981). Sau đó ông giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội (1981-1987), Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ tháng 11-1988 đến tháng 8-1994), Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII và VIII (từ 1981 đến 1992), Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ tháng 8-1994 đến tháng 12-1996).
Với những công lao đóng góp to lớn như vậy, ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Ông cũng được Nhà nước Liên xô (trước đây) tặng Giải thưởng Lê-nin và Huân chương Hữu nghị “Vì sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc”, Nhà nước Cu ba tặng Huân chương “Đoàn kết - Chiến đấu”, Nhà nước Bungari tặng Giải thưởng Đimitrốp, Hội đồng Hòa bình thế giới tặng Huân chương Giô-li-ô Qui-ri (Joliot Cuire).
Đánh giá về cuộc đời hoạt động, công lao và sự cống hiến của ông - nhà trí thức yêu nước tiêu biểu, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh đã đúc kết: “Nguyễn Hữu Thọ - người con tận trung với nước, tận hiếu với dân”.