Thành Cổ Loa được gọi là Loa Thành vì:
A. Nằm ở vùng đất Cổ Loa.
B. Hình dáng thành thắt lại như Cổ Lọ hoa.
C. Thành gồm ba vòng khép kín theo hình soáy trôn ốc.
D. Thành giống hình Cái Loa.
Thành Cổ Loa được gọi là Loa Thành vì:
A. Nằm ở vùng đất Cổ Loa.
B. Hình dáng thành thắt lại như Cổ Lọ hoa.
C. Thành gồm ba vòng khép kín theo hình soáy trôn ốc.
D. Thành giống hình Cái Loa.
Câu 5. Thành Cổ Loa là một biểu tượng của nền văn minh Việt cổ rất đáng tự hào vì:
A. Kết cấu của thành gồm 3 vòng khép kín được xây theo hình xoáy trôn ốc.
B. Thành Cổ Loa được xây dựng rất kiên cố.
C. Thành là minh chứng cho trí tuệ của người Việt cổ.
D. Thể hiện được sức mạnh quân sự của nhà nước Âu Lạc.
Câu 9. Nước Âu Lạc tồn tại trong khoảng thời gian :
A.Thế kỉ III TCN đến năm 43.
B. Từ năm 208TCN đến năm 43.
C. Từ thế kỉ VII TCN đến năm 179 TCN.
Câu 10. Kinh đô của nhà nước Văn Lang là:
A. Phong Châu (Phú Thọ).
B. Phú Xuân (Huế).
C. Cấm Khê (Hà Nội).
D. Cổ Loa ( Hà Nội).
Câu 11. Nội dung nào dưới đây không phản ánh đúng đời sống vật chất của người Việt cổ thời Văn Lang- Âu Lạc:
A. Lấy nghề nông trồng lúa nước làm nghề chính.
B. Nghề luyện kim dần được chuyên môn hóa.
C. Cư dân chủ yếu ở nhà sàn được dựng bằng tre, nứa.
D.Thường xuyên tổ chức các lễ hội gắn với nền nông nghiệp.
Câu 12. Triệu Đà đã dùng âm mưu để đánh được quân dân Âu Lạc là:
A. Giả vờ xin hòa và dùng mưu kế chia rẽ nội bộ Âu Lạc..
B. Cho con sang ở rể để lấy cắp nỏ thần.
C.Tìm cách li tán An Dương Vương với các tướng giỏi.
D. Mua chuộc các tướng giỏi.
Giúp em với ạ em đang cần gấp!
Mọi người đừng làm bừa nha!!!!!
Câu 14. Để thực hiện âm mưu đồng hóa về văn hóa đối với người Việt, các chính quyền đô hộ phương Bắc đã thực hiện biện pháp nào dưới đây:
A. Bắt người Việt tuân theo phong tục, luật pháp của người Hán.
B. Xây đắp các thành lũy lớn và bố trí lực lượng quân đồn trú đông đảo.
C. Chia Âu Lạc thành các quận, huyện rồi sát nhập vào lãnh thổ Trung Q uốc.
D. Bắt người Hán sinh sống và tuân theo các phong tục, tập quán của người Việt.
Câu 15. Địa danh nào dưới đây không phải là trụ sở của các triều đại phong kiến phương Bắc trong thời kì Bắc thuộc:
A. Thành Luy Lâu.
B. Thành Cổ Loa.
C. Thành Tống Bình.
D. Thành Đại La.
Câu 16. Hoạt động kinh tế chính của các vương quốc phong kiến Đông Nam Á từ thế kỉ VII đến thế kỉ X:
A.Thủ công nghiệp và thương mại biển .
B. Nông nghiệp và thương mại biển.
C. Nông nghiệp và thủ công nghiệp.
D. Thủ công nghiệp và thương mại.
Câu 17. Cách bóc lột chủ yếu của bọn phong kiến phương Bắc đối với nhân dân Âu Lạc là:
A. Thuế. B. Đi phu. C. Lao dịch D. Cống nạp
Câu 18. Hai thứ thuế bị nhà Hán đánh nặng nhất là:
A. Thuế rượu, thuế muối. B. Thuế muối, thuế sắt.
C. Thuế chợ, thuế đò. D. Thuế ruộng, thuế thân.
D. Từ năm 208 TCN đến năm 179 TCN.
Thành Cổ Loa có dạng ?
a) Hình tròn
b) Hình vuông
c) Hình xoáy tròn ốc
hình xoáy tròn ốc cái này mik học rồi tick nhé
Thành Cổ Loa được gọi là Loa Thành vì:
A. Nằm ở vùng đất Cổ Loa.
B. Hình dáng thàn thắt lại như cổ lọ hoa.
C. Thành gồm ba vòng khép kín theo hình xoáy trôn ốc.
D. Thành giống hình Cái Loa.
Người sau hay gọi Thành Cổ Loa là Loa Thành vì:
A. Nằm ở vùng đất Cổ Loa
B. Hình dáng thàn thắt lại như Cổ lọ hoa
C. Thành gồm ba vòng khép kín theo hình soáy trôn ốc
D. Thành giống hình Cái Loa
Chọn đáp án: C. Thành gồm ba vòng khép kín theo hình soáy trôn ốc
Giải thích: Sử cũ chép: “Thành rộng hơn nghìn trượng như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành”.
Câu 1:Ở Bậc Tiểu học, em có biết câu chuyện kể về việc xây thành Cổ Loa? Em thấy việc xây thành Cổ Loa diễn ra như thế nào?Hãy cho biết kết quả của việc xây thành Cổ Loa.
Câu 2: Nước Âu Lạc thời An Dương vương có lực lượng quân đội lớn mạnh: người đông , có nhiều vũ khí tốt, lại có thành cổ Loa kiên cố, lợi hại. Tuy vậy, An Dương Vương lại thất bại nhanh chóng trước cuộc tấn công của Triệu Đà. Theo em vì sao?
2. Kẻ thù nham hiểm
Nội bộ bị chia rẽ
An Dương Vương chủ quan , khinh địch , mất cảnh giác với kẻ thù .
Sory vì ko biết câu 1
Câu 34: Thành Cổ Loa là trung tâm của nhà nước nào?
A. Văn Lang
B. Phù Nam
C. Âu Lạc
D. Nam Việt
Câu 35: Thành Cổ Loa được xây dựng hình chôn ốc với mục đích gì?
A. Để thuận tiện cho việc đi lại trong thành
B. Để phù hợp với địa hình
C. Để tránh bị ngập nước
D. Để phòng thủ đất nước.
Câu 36: Bài học lớn nhất cần rút kinh nghiệm cho đời sau trước thất bại của An Dương Vương trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà xâm lược đó là:
A.Phải có tinh thần đoàn kết, quân dân trên dưới một lòng.
B.Phải có vũ khí tốt, lực lượng mạnh.
C.Phải có lòng yêu nước và quyết tâm chồng giặc.
D.Phải đề cao cảnh giác với kẻ thù.
Câu 37: Việc tổ chức bộ máy cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc nhằm mục đích cuối cùng là gì?
A. Sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng
B. Thành lập quốc gia mới thần phục phong kiến Trung Quốc
C. Thành lập quốc gia riêng của người Hán
D. Phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân Âu Lạc
Câu 38: Sau khi chiếm được Âu Lạc, nhà Triệu đã thực hiện chính sách gì để tổ chức bộ máy cai trị?
A. Chia Âu Lạc thành 2 quận, sáp nhập vào quốc gia Nam Việt.
B. Chia Âu lạc thành nhiều châu để dễ bề cai quản.
C. Tăng cường kiểm soát, cử quan lại cai trị đến cấp huyện.
D. Chia Âu Lạc thành 3 quân, sáp nhập vào quân Giao Chỉ.
Câu 39: Thời nhà Đường, bên cạnh chính sách cống nạp, chính quyền đô hộ còn tăng cường chế độ gì?
A. Thuế muối, sắt . Thuế ruộng, thuế bò.
C. Thuế khóa và lao dịch D. Chiếm đoạt của cải của nhân dân
Câu 40: Thời nhà Đường, chúng đặt trị sở ở đâu?
A. Cổ Loa (Đông Anh- Hà Nội) B.Phong Châu (Phú Thọ)
C. Diễn Châu (Nghệ An) D.Tống Bình (Hà Nội)
Câu 34: Thành Cổ Loa là trung tâm của nhà nước nào?
A. Văn Lang
B. Phù Nam
C. Âu Lạc
D. Nam Việt
Câu 35: Thành Cổ Loa được xây dựng hình chôn ốc với mục đích gì?
A. Để thuận tiện cho việc đi lại trong thành
B. Để phù hợp với địa hình
C. Để tránh bị ngập nước
D. Để phòng thủ đất nước.
Câu 36: Bài học lớn nhất cần rút kinh nghiệm cho đời sau trước thất bại của An Dương Vương trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà xâm lược đó là:
A.Phải có tinh thần đoàn kết, quân dân trên dưới một lòng.
B.Phải có vũ khí tốt, lực lượng mạnh.
C.Phải có lòng yêu nước và quyết tâm chồng giặc.
D.Phải đề cao cảnh giác với kẻ thù.
Câu 37: Việc tổ chức bộ máy cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc nhằm mục đích cuối cùng là gì?
A. Sáp nhập nước ta vào lãnh thổ của chúng
B. Thành lập quốc gia mới thần phục phong kiến Trung Quốc
C. Thành lập quốc gia riêng của người Hán
D. Phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân Âu Lạc
Câu 38: Sau khi chiếm được Âu Lạc, nhà Triệu đã thực hiện chính sách gì để tổ chức bộ máy cai trị?
A. Chia Âu Lạc thành 2 quận, sáp nhập vào quốc gia Nam Việt.
B. Chia Âu lạc thành nhiều châu để dễ bề cai quản.
C. Tăng cường kiểm soát, cử quan lại cai trị đến cấp huyện.
D. Chia Âu Lạc thành 3 quân, sáp nhập vào quân Giao Chỉ.
Câu 39: Thời nhà Đường, bên cạnh chính sách cống nạp, chính quyền đô hộ còn tăng cường chế độ gì?
A. Thuế muối, sắt . Thuế ruộng, thuế bò.
C. Thuế khóa và lao dịch D. Chiếm đoạt của cải của nhân dân
Câu 40: Thời nhà Đường, chúng đặt trị sở ở đâu?
A. Cổ Loa (Đông Anh- Hà Nội) B.Phong Châu (Phú Thọ)
C. Diễn Châu (Nghệ An) D.Tống Bình (Hà Nội)
Sau chiến công vĩ đại đánh đuổi 50 vạn quân Tần, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa.
Tục truyền rằng thành xây nhiều lần nhưng đều bị đổ. Sau nhờ có thần Kim Quy giúp, thành mới xây xong. Sự thực là như thế nào ?
Thành gồm 9 vòng. Chu vi ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km. Thành cao4-5m, có chỗ 6-12m, khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa thật là đồ sộ nhưng lại xây trên nền đất yếu, vì vậy việc xây thành Cổ Loa cực kì khó khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Thành được xây theo cách cần đất đắp thành đến đâu, khoét hào sâu đến đó. Mặt thành thẳng đứng, mặt trong thoai thoải. Như vậy ngoài đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ.
Tìm các từ được lặp lại để liên kết câu trong bài văn trên.
Từ được lặp lại để liên kết câu là: "thành".
Ở bậc Tiểu học, em có biết câu chuyện kể về việc xây thành Cổ Loa? Em thấy việc xây thành Cổ Loa diễn ra như thế nào? Hãy cho biết kết quả của việc xây thành Cổ Loa
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước phong kiến dưới thờiNgô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện nay, di tích Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn.
Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn.
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,58 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn có đường kính 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra, thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Nhân dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế tạo côn, kiếm, giáo, mác và nỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở đây
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng cống song, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi.
Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hồng
Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài họặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa. Cổ Loa cũng được biết đến là một trong những đô thị đầu tiên trong lịch sử nước ta.
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xa hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.
Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam và vào ngày 6/1/2013 âm lịch cổ loa đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Trên địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, khuôn đúc mũi tên, rìu lưỡi xéo bằng đồng, và trống đồng.
19. Thành Cổ Loa có mấy vòng khép kín?
20. Nghề chính của cư dân Việt Cổ là
21. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang{nét chính)
Câu 19: Có 3 vòng khép kín
19.Thành Cổ Loa có mấy vòng khép kín
\(\Rightarrow\)Thành Cổ Loa có 3 vòng khép kín
20. Nghề chính của cư dân Việt Cổ là
\(\Rightarrow\)Nông nghiệp-trồng lúa nước