khúc thừa dụ dựng quyền tự chủ trog hoàn cảnh nào? ý nghĩa
Sự kiện Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ có ý nghĩa như thế nào?
Giúp mình với mai mình phải học rồi!!!!
Tiết độ sứ là chức quan của nhà Đường, thể hiện quyền thống trị của nhà Đường đối với An Nam, nay phong cho Khúc Thừa Dụ để chứng tỏ An Nam vẫn thuộc nhà Đường.
cho mình hỏi tại sao An NAm vẫn thuộc về nhà Dường
Khúc Hạo đã kế thừa tinh thần yêu nước, tự chủ của cha như thế nào?
Khúc Hạo là con trai của Khúc Thừa Dụ. Trong nhiêu tài liệu hiện nay không chép về tiêu sử của ông nhưng với cuộc đời và sự nghiệp của ông có thể thấy, ông là người thông minh, rất thức thời, có chí lớn và có ý thức độc lập tự chủ cao.
Năm 906, Khúc Hạo được cha phong cho làm “Tĩnh hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu” - một chức vụ chỉ huy quân đội. Sau khi cha mất, Khúc Hạo kế nghiệp cha nắm quyền Tiết độ sứ. Ngày 1-9-907, nhà Hậu Lương (triều đại thay thế nhà Đường ở Trung Quốc) cũng phải công nhận ông là “An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ”.
Khúc Hạo nắm quyền trong khi công cuộc xây dựng đất nước về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội còn đang dang dở. Nối nghiệp cha, nối chí cha, phát huy ý chí tự lập, tự cường của dân tộc, Khúc Hạo đã kiên trì giữ vũng đất nước chăm lo xây dựng nên tảng độc lập của dân tộc, tiến hành nhiều cải cách quan trọng.
Về chính trị, Khúc Hạo đã bãi bỏ mô hình tổ chức hành chính của chính quyền đô hộ nhà Đường, xây dựng một bộ máy nhà nước mang tinh thần dân tộc[1]. Từ một mô hình của chính quyền đô hộ mang tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên hết sức lớn lao nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương cho đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã có xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau trước gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc thu thuế, được cử ra theo nguyên tắc tôn trọng người già và được quyền thế tập. Điều này rất phù hợp với tư tưởng và truyền thống của cư dân nông nghiệp, vì nghề nông phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và kinh nghiệm của những người già. Theo sách An Nam chí nguyên Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp có trước cả thảy gồm 314 giáp[2].
Với cải cách trên, chính quyền Khúc Hạo đã tiến thêm một bước trong quá trình xây dựng nền tự chủ, tăng cường sự quản lí của nhà nước tới cấp địa phương. Có thể nói, đây là lần đầu tiên các làng xã chấp nhận vào đội ngũ quản lí của nhà nước. Tác giả Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” đã đánh giá về vị trí của cuộc cải cách này là: “Tổ chức hành chính của họ Khúc phần não sẽ là cơ sở cho tổ chức hành chính của các triều đại tự chủ sau này”[3].
Về kinh tế - xã hội: Đường lối của cuộc cải cách Khúc Hạo đi theo định hướng chung là “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị. Nhân dân cốt được yên vui”[4].
“Khoan dung là không thắt buộc quá đối với dân như bọn tham ô quan lại, một tệ nạn lớn của thời Bắc thuộc.
Giản dị, là không làm phiền hà, nhiễu dân bởi quá nhiều thủ tục hành chính quan liêu.
An, lạc (yên vui) "an cư, lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống nông dân nơi làng xóm”[5].
Tóm lại, đó là một đường lối chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất cứ một phong trào dân tộc chân chính nào cũng phải có một nội dung dân chủ nào đó.
Về kinh tế, Khúc Hạo đã sửa đổi lại chế độ điền tô, thuế má lao dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh: “Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi…”[6].
Chính sách “bình quân thuế ruộng” thực chất là chính sách “quân điền” với chế độ thuế tô, dung, điệu của nhà Đường, nhưng đã được Khúc Hạo đã áp dụng vào nước ta một cách sáng tạo, phù hợp với cơ cấu kinh tế và xã hội Việt Nam thế kỉ X.
Như vậy, những cải cách kinh tế và chính trị của Khúc Hạo đã có ý nghĩa lớn lao trong công cuộc xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ, tách dời khỏi quyền lực của chính quyền đô hộ phong kiến phương Bắc. Do nhu cầu chống ngoại xâm, các hào trưởng địa phương phải phục tùng chính quyền trung ương Trung Quốc, nhưng vẫn có xu hướng cát cứ để củng cố chính quyền ở các cơ sở. Công cuộc xây dựng nền tự chủ, thống nhất của Khúc Hạo mở ra một thời kì phát triển mới của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành.
Với những đóng góp trong sự nghiệp xây dựng đất nước hồi đầu thế kỉ X, dòng họ Khúc đã đặt cơ sở quan trọng để Ngô Quyền kết thúc hoàn toàn một nghìn năm Bắc thuộc của dân tộc bằng chiến thắng Bạch Đằng lịch sử (938).
A) bà triệu dựng cờ khởi nghĩa ở đâu
B) lí bí dựng cờ khởi nghĩa ở đâu
C) mai thúc loan dựng cờ khởi nghĩa ở đâu
D)phùng hưng dựng cờ khởi nghĩa ở đâu
Khúc thừa dụ dựng cò khởi nghĩa ở đâu
Mình sắp thi rồi các bạn giúp mình với help meeeeeeeeeeeeeeeee mong các bạn giúp đỡ
1 ở Phú Điền (Thanh Hoá)
2 thái bình
3 Được nhân dân khắp vùng Thanh, Nghệ Tĩnh hưởng ứng, nghĩa quân trở nên đông đảo, mạnh mẽ
4Đường Lâm
5Hồng Châu (Ninh Giang, Hải Dương)
câu 1:nêu nguyên nhân diễn biến,kết quả,ý nghĩa của các thuộc đấu tranh thời Bắc thuộc?
câu 2: khúc thừ dụ đã dựng quyền tự chủ trong điều kiện lịch sử nào?
câu 3:hãy trình bàu diễn biến,kết quả,ý nghĩa của chiến thắng bạch đằng?
câu 4:hơn 1000 năm đấu tranh giành độc lập để lại bài hokc j cho dân tộc?là học sinh cần phải lm j để bảo vệ thành quả mà dân tộc ta lm đc?
mn ơi,giúp mk với ạ,mai mk kt r:((( huhu
em biết gì về các nhân vật lịch sử như khúc thừa dụ khúc hạo ngô quyền đóng góp của những nhân vật này đối với lịch sử dân tộc
1. Vì sao nới thành thị là hình ảnh tương phản với lãnh địa phong kiến?
2. Nêu các cuộc phát kiến địa lí.
3. Âm mưu xâm lược Đại Việt của quân Mông- Cổ.
4. Thời gian, sự kiện, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của 3 lần kháng chiến chống quân Mông-Nguyên.
5. Cuộc kháng chiến chống quân Tống cuả Lê Hoàn.(thời gian và sự kiện)
6. Cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt.
7. Những biểu hiện về ý thức tự chủ của Ngô Quyền trong việc xây dựng đất nước.
8.Công lao của Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh đối với nước ta trong buổi đầu độc lập.
9. Nêu các tầng lớp dân cư trong xã hội thời Lý.
LÀM ĐƯỢC CÂU NÀO THÌ LÀM GIÚP MÌNH NHA~~~~
THANKS NHIỀU
Câu 2:+Nguyên nhân: Do yêu cầu phát triển của sản xuất đã làm nảy sunh nhu cầu về thị trường vàng bạc, nguyên liệu
Những tiến bộ về kỉ thuật hàng hải : la bàn, hải đồ(bản đồ), kỉ thuật đóng tàu thuyền là điều kiện để thực hiện các cuộc phát kiến địa lý
Các cuộc phát kiến địa lý lớn là:
B. Đi A-xơ qua điểm cực nam Châu Phi(1847)
Va- xcô đơ Gam-maddeens Tây Nam Ấn Độ (1498)
C. Cô-lôm-bô tìm ra Châu Mĩ(1492)
Ph. Ma-gien-lan đi vòng quanh Trái Đất(1519-->1522)
Chúc bạn học tốt !
Câu 3: Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định mở cuộc tấn công lớn vào nước Nam Tống (ở phía nam Trung Quốc), nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để đạt được tham vọng đó, vua Mông Cổ sai tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy hơn 3 vạn quân xâm lược Đại Việt, rồi từ Đại Việt đánh thẳng lên phía nam Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân từ phía bắc xuống. Đó là việc thực hiện kế hoạch "gọng kìm" để tiêu diệt Nam Tống và xâm lược Đại Việt v.v...
Trước khi kéo quân vào xâm lược, tướng Mông cổ cho sứ giả đưa thư đe doạ và dụ hàng vua Trần. Ba lần sứ giả Mông cổ đến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt giam vào ngục.
tick mk nha! hihihihiiiiiiiii
Câu 8: Công lao lớn nhất của Ngô Quyền là đặt nền móng cho việc xây dựng chính quyền độc lập ; Đinh Bộ Lĩnh là người có công dẹp "Loạn 12 sứ quân", xoá bỏ tình trạng phân tán cát cứ, thống nhất đất nước
Bài tập 1. “Muốn chết là một tội.”
(Trích: Chiếc lá cuối cùng – O.Hen –ri)
Câu 1: Câu nói trên là của nhân vật nào? Được xuất hiện trong hoàn cảnh nào? Nó có ý nghĩa như thế nào đối với nhân vật nói câu ấy?
Câu 2: Cho câu chủ đề "Truyện ngắn ”Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn O.Hen ri đã thể hiện tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ''.
Viết đoạn tiếp 8-10 câu để làm thành một đoạn văn theo phương pháp lập luận diễn dịch. Trong đoạn văn có sử dụng một tình thái từ và một câu ghép ( Gạch chân, chú thích rõ tình thái từ và câu ghép).
Câu 3: Từ cảm nhận của nhân vật trong “Chiếc lá cuối cùng” – O. Hen-ri, em hãy viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ về nghị lực sống của con người khi gặp phải khó khăn.
Yếu tố nào không phản ánh đúng cơ sở hình thành nền văn hóa Xô viết là
A. tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
B. thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
C. thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
D. kế thừa những tinh hoa của di sản văn hóa nhân loại
Sự kiện Ngô Quyền bỏ chức Tiết độ sứ, xưng vương có ý nghĩa như thế nào?
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng Vương, đưa Dương Thị (cọn gái Dương Đình Nghệ) làm hoàng hậu, lập thành một vương quốc độc lập đàng hoàng. Thành Cổ Loa là kinh đô cũ của nước âu Lạc thời An Dương Vương được Ngô Quyền chọn làm kinh đô của vương quốc độc lập thế kỷ X. Đó là một việc làm có ý nghĩa nêu cao truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc, biểu thị ý chí quyết giữ vững nền độc lập vừa giành lại được sau hơn mười thế kỷ, đấu tranh bền bỉ chống xâm lược và đô hộ của phong kiến nước ngoài. Sự kiện Ngô Quyền xưng Vương lập ra nhà Ngô đã đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc, đập tan mưu đồ ngông cuồng chiếm lĩnh An Nam của chúng, đưa nước ta vào một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập lâu dài, bứt ra khỏi sự đô hộ của ngoại bang...
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng Vương, đưa Dương Thị (cọn gái Dương Đình Nghệ) làm hoàng hậu, lập thành một vương quốc độc lập đàng hoàng. Thành Cổ Loa là kinh đô cũ của nước âu Lạc thời An Dương Vương được Ngô Quyền chọn làm kinh đô của vương quốc độc lập thế kỷ X. Đó là một việc làm có ý nghĩa nêu cao truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc, biểu thị ý chí quyết giữ vững nền độc lập vừa giành lại được sau hơn mười thế kỷ, đấu tranh bền bỉ chống xâm lược và đô hộ của phong kiến nước ngoài. Sự kiện Ngô Quyền xưng Vương lập ra nhà Ngô đã đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc, đập tan mưu đồ ngông cuồng chiếm lĩnh An Nam của chúng, đưa nước ta vào một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập lâu dài, bứt ra khỏi sự đô hộ của ngoại bang...
Đại loại thế,mà anh cũng kém sử lắm,lâu lắm rồi không động...
Chúc em học tốt!
Tháng 4-937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, hào trưởng đất Phong Châu giết chết để đoạt chức Tiết độ sứ. Ngô Quyền, vừa là bộ tướng, vừa là con rể của Dương Đình Nghệ tiến quân ra Bắc để trừ kẻ phản bội. Trước sự phẫn nộ của nhân dân, Kiếu Công Tiễn nhanh chóng cầu cứu vua Nam Hán. Nắm lấy cơ hội, vua Nam Hán dù được triều thần can ngăn nhưng vẫn quyết tâm chiếm nước ta cho bằng được.
Vua Nam Hán đã phong cho con hai là Vạn vương Hoằng Tháo chức Tĩnh hải quân tiết độ sứ, thống lĩnh thủy quân 'vượt biển sang nước ta với danh nghĩa giúp Kiều Công Tiễn đánh Ngô Quyền. Bản thân nhà vua đem quân đến đóng ở trấn Hải Môn, tỉnh Quảng Tây, sát với biên giới nước ta để kịp thời tiếp viện.
Khi quân Nam Hán còn chưa đến nước ta, Ngô Quyền cùng đội quân của mình đã tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn tại thành Đại La. Trừ xong họa trong nước, Ngô Quyền cùng toàn dân chuẩn bị đánh giặc ngoại xâm. ông nhận định: “|Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được".
Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ: từ Bình Kiều, Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền. Đại bản doanh của Ngô Quyền đóng tại thôn Lương Xâm-, Gia Viễn (cũng thuộc An Hải). Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến phương Bắc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết cả dân tộc. Đội quân của Ngô Quyền từ một đội binh ở Ái Châu nhanh chóng trở thành đội binh dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (An Hải) do Nguyên Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu đã tự vũ trang xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng) người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền tìm đến cửa quân xin diệt giặc.
Quân đội chủ lực của Ngô Quyền chiến đấu trong sự phối hợp với các đội dân binh và sự tham gia phục vụ chiến đấu của toàn dân.
Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến. Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng. Dân gian ở đây đã có câu ca dao:
Con ơi nhớ lấy lời cha
Gió to sóng cả động qua sông Rừng
Sông Rừng thường có sóng bạc đầu nên mới có tên gọi Bạch Đằng giang. Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc và là đường giao thông quan trọng từ biển Đông vào nội địa nước ta. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cứa biển ngược lên gần 20km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi đá vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng. Hạ lưu sông Bạch Đằng chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạ n h . Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài kilômét. Lòng sông vừa rộng, vừa sâu từ 8-18m. Khi triều xuống, vào độ nước cường, nước rút đến hơn 30cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất cũng trên 3m. Với chế độ nhật triều, thời gian từ lúc nước triều lên cho đến lúc xuống thấp nhất chỉ trong vòng một ngày.
Ngô Quyền đã huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống dòng sông, bãi cọc tạo thành bãi chướng ngại ở hai bên cửa sông. Khi nước triều lên, cả bãi cọc ngập chìm dưới nước nhằm chặn đường rút của thủy quân địch. Cả một đoàn binh thuyền cửa Hoằng Tháo vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Ngô Quyền cho quân thủy dùng thuyền nhẹ đón đánh địch từ xa, quân ta giả thua rút chạy. Hoằng Tháo cho quân đuổi theo, vượt qua bãi cọc, tiến sâu vào thế trận quân ta đã dàn sẵn. Khi thủy triều xuống, quân ta bất ngờ tiến công mãnh liệt Quân địch bị chặn bởi bãi cọc, không rút chạy được bị. Quân giặc phần bị giết, phần bị chết đuối, thiệt hại đến quá nửa. Hoằng Tháo đã bỏ mạng theo Kiều Công Tiễn, đội quân xâm lược hoàn toàn tan rã. Vua Nam Hán đang điều quân sang tiếp viện cho con nhưng nửa đường nghe tin Hoằng Tháo chết trận quá đau xót, y thu nhặt tàn quân rút chạy. Ý chí xâm lược của nhà Nam Hán bị đè bẹp.
Vua Nam Hán đã mắc phải sai lầm vô cùng lớn cũng chi vì lòng tham không đáy. Nuôi mộng bành trướng, chiếm lĩnh nước ta, chúng không biết suy xét thực tế rằng Kiều Công Tiễn là một kẻ "vô luân, bất nhân", nhẫn tâm giết hại chủ tướng là "bất nghĩa", hại cha nuôi của mình là "bất hiếu', lại đang tâm bán nước là "bất trung"; chính vì thế y không được lòng bộ tướng, binh sĩ cũng như lòng dân, cả nước lên án kẻ tội đồ; vậy thì làm sao có khả năng "giúp sức" cho quân xâm lược tiến vào lãnh thổ. Cái chết của Kiều Công Tiễn, Hoằng Tháo, sự thua trận của quân Nam Hán là tất yếu !
Lược đồ trận đánh trên sông Bạch Đằng
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã đánh dấu sụ chấm dứt thời kỳ đô hộ cửa phong kiến phương Bắc, đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập lâu dài.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ phát triển của quốc gia phong kiến độc lập và lớn lên nhanh chóng của dân tộc ViệtNam. Chiến thắng đó đã đánh bại mưu đồ xâm lược của nhà Nam Hán, khẳng định sự tồn tại vững chắc của đất nước và nâng cao thêm ý thức làm chủ của dân tộc. Trên cơ sở thắng lợi quân sự oanh liệt đó, Ngô Quyền - người anh hùng của cuộc kháng chiến chống xâm lược đã tiến một bước lớn trên con đường củng cố nền độc lập dân tộc.
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng Vương, đưa Dương Thị (cọn gái Dương Đình Nghệ) làm hoàng hậu, lập thành một vương quốc độc lập đàng hoàng. Thành Cổ Loa là kinh đô cũ của nước âu Lạc thời An Dương Vương được Ngô Quyền chọn làm kinh đô của vương quốc độc lập thế kỷ X. Đó là một việc làm có ý nghĩa nêu cao truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc, biểu thị ý chí quyết giữ vững nền độc lập vừa giành lại được sau hơn mười thế kỷ, đấu tranh bền bỉ chống xâm lược và đô hộ của phong kiến nước ngoài.
Tại đây, Ngô Quyền đã xây dựng cả một triều đình riêng với đầy đủ các ban văn, võ và chế định triều nghi phẩm phục. Triều đình cua Ngô Quyền được xây dựng theo thể chế cửa một vương triều phong kiến hoàn toàn độc lập. Bộ máy chính quyền đó đã mang tính chất tập quyền.
Sự kiện Ngô Quyền xưng Vương lập ra nhà Ngô đã đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc, đập tan mưu đồ ngông cuồng chiếm lĩnh An Nam của chúng, đưa nước ta vào một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập lâu dài, bứt ra khỏi sự đô hộ của ngoại bang.
Lịch sử đã ghi nhận: Ngô Quyền là vị vua đã khai tử thời đại Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm (từ năm 111 TCN đến năm 938, trừ ba năm 40-42 nước ta được độc lập dưới triều Trưng Vương), là người có công tái tạo, đã khai sinh ra thời đại tự chủ của dân tộc Việt với các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Hồ - Hậu Trần - Hậu Lê - Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn...
Ngô Quyền được coi là vị vua đứng đầu các vua của nước ta (theo quan điểm của Đại Việt sử ký toàn thư). Chiến thắng Bạch Đằng đã thể hiện tài năng quân sự và ý chí quyết thắng của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền; đồng thời cũng là thành quả của cuộc kháng chiến anh dũng và đầy sáng tạo của nhân dân ta sau hơn 30 năm làm chủ đất nước Thắng lợi ấy nói lên sự lớn mạnh của nhân dân ta về trí tuệ và khả năng đánh bại kẻ địch không những chỉ bằng du kích mà cả bằng chính quy, không những chỉ ở trên bộ mà cả bằng thủy chiến. Chiến thắng Bạch Đằng là một ví dụ điển hình về tinh thần mưu trí và có tính toán một cách chính xác trong nghệ thuật chiến dịch của lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã khẳng định quyền làm chủ của nhân dân ta trên vùng đất của tổ tiên thời Văn Lang - Âu Lạc và tạo thêm một niềm tin, một niềm tự hào sâu sắc lên bước đường xây dựng đất nước độc lập, tự chủ sau này.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVIII) đã đánh giá đúng vị trí và ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng khi viết: "Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng và cơ sở sau này cho việc phục lại Quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào cái uy lẫm liệt để lại ấy." "Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu” (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án).
Chiến thắng oanh liệt của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn nghìn năm, dân tộc ta đã giành lại được quyền làm chủ đất nước. Một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc bắt đầu.
Hiện nay, không những ở Đường Lâm (huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), quê hương của Ngô Quyền mà tại thành phố Hải Phòng (bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử) cũng có những ngôi đền và đình nhờ Ngô Quyền. Ngôi đình tráng lệ được người trong nước và khách quốc tế đặc biệt ngưỡng mộ là Đình Hàng Kênh (xây dựng năm 1718) trong đó còn đôi câu đối lớn với dòng chữ Nho:
Vương nghiệp khởi Loa Thành, trường biên thanh sử;
Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân.
Nghĩa là:
Vương nghiệp bắt đầu từ Loa Thành, con ghi chép dài lâu trong sử xanh;
Chiến công lưu lại trên sông Đằng, (trong đó) có ân phúc của loài cây.