tinh yeu doi lua
Giai toan bang cach lap phuong trinh :
So lua o kho thu nhat gap doi so lua o kho thu hai . Neu bot o kho thu nhat di 750 ta va them vao thu hai 350 ta thi so lua o 2 kho se bang nhau . Tinh xem luc dau moi kho co bao nhieu lua.
Gọi số lúa ở kho thứ 2 lúc đầu là x(tạ , x>0)
=> Số lúa ở kho thứ 1 lúc đầu là 2x
Số lúa ở kho thứ nhất lúc sau: 2x-750
Số lúa ở kho thứ 2 lúc sau: x+350
Ta có phương trình:
2x-750=x+350
<=>2x-x=750+350
<=>x=1100
Vậy lúc đầu số lúa ở kho thứ 2 là 1100 tạ
lúc đầu số lúa ở kho thứ 1 là 2200 tạ
Mot mieng dat hinh thang co day lon 42m day be bang2/3 day lon va gap doi chieu cao nguoi ta lay ra 40% dien tich trong hoa con lai trong lua tinh dien tich dat trong lua
1)nha nuoc van lang ra doi trong hoan canh nao ?
2)trinh bay nhung net chinh trong doi song vat chat va tinh than cua cu dan van lang
3)nghe nong trong lua nuoc ra doi co y nghia nhu the naodoi voi con nguoi
Đề bài giống đề ôn thi của mk z à để bt những câu hỏi này thì bn chỉ cần mở vở và sách lịch sử và xem từng trg 1 là ok thôi mk cx có đáp án của các câu trê nhưng mk hơi lười để chép -3-
bạn cứ dựa vào trong sách là tl đc hết à nhưng mà chỉ ghi ngắn gọn thôi ghi những ý chính nếu có sách ở đây thì mình làm đc hết
mot doi tho gat trong 3 ngay gat duoc 2,5 ha lua. Ngay thu nhat 1 gat duoc 40% dien tich lua , ngay thu 2 gat duoc 60% dien tich lua con lai .Hoi ngay thu 3 doi do gat duoc bao nhieu ha lua ?
2,5 ha = 250 a
Ngày thứ 1 gặt được là : 250 : 100 x 40 = 100 a
Ngày thứ 2 gặt được là : (250 - 100) : 100 x 60 = 90 a
Ngày thứ 3 gặt được là : 250 - 90 - 100 = 60 a
= 0,6 ha
Đ/s: 0,6 ha
1) 3 doi hoc sinh co tat ca 150 em so nguoi doi 1 chiem 30% tong so , so nguoi doi 2 bang 80% so nguoi doi 1 tính so nguoi doi 3
2) so hoc sinh lop 6a gom 4 loai kha, gioi, trung binh, yeu có 9 học sinh xep loại giỏi chiem 1/5 học sinh ca lop
a) tinh so hoc sinh ca lop
b) so hoc sinh kha chiem 40% so hoc sinh ca lop so hoc sinh trung binh chiem 1/3 so hoc sinh ca lop tinh so hoc sinh kha trung binh yeu
1) Số người đội 1 là:
\(150.30\%=45\) (người)
Số người đội 2 là:
\(45.80\%=36\) (người)
Vậy số người đội 3 là:
\(150-\left(45+36\right)=69\) (người)
Đáp số: 69 người
2)
a, Số học sinh cả lớp là:
\(9:\dfrac{1}{5}=45\) (học sinh)
b, Số học sinh khá là:
\(45.40\%=18\) (học sinh)
Số học sinh trung bình là:
\(45.\dfrac{1}{3}=15\) (học sinh)
Số học sinh yếu là:
\(45-\left(18+15+9\right)=3\) (học sinh)
Đáp số: a) 45 học sinh
b) Khá: 18 học sinh
Trung bình: 15 học sinh
Yếu: 3 học sinh
co mot ong ong di len nui ong gap ba cai hang hang thu nhat ong gap ma yeu tinh hang thu hai ong gap ma ca chua hang thu ba ong gap rong lua hoi ong gap con gi
cac ban co biet con nang tien banh ngot khong , con do a ha no chi lua nguoi khac de duoc diem so nhu bay gio thoi chu no khong gioi gi dau no vua lua toi xong nay . no bao tich minh minh tich lai vay ma minh tich voi yeu cau la giai ho minh bai toan roi minh tich 2 cai con lai cho vay ma no khong giu loi hua minh tich cho no roi ma no khong giai cho minh cai cau ay chi la do noi doi . cac ban phai de y con nang tien banh ngot khong la bi no lua day nhe
Mot nong truong co 408 con trau, vua lua, vua ngua, vua bo. Biet so trau it hon so ngua la 12 con,so bo gap doi so trau. hay tinh so con bo trong nong truong ay
Sửa lại đề bài cho có dấu:
Một nông trường có 408 con trâu, vừa lừa, vừa ngựa, vừa bò. Biết số trâu ít hơn số ngựa là 12 con,số bò gấp đôi số trâu. hãy tính số con bò trong nông trường ay
Thay số ngựa bằng “số trâu + 12” và số bò bằng “2 lần số trâu” ta thấy:
Số trâu + số ngựa + số bò = 408
Số trâu + (số trâu +12) + (số trâu ×2)= 408
⇒ Số trâu ×4 + 12 =408
⇒ Số trâu là: 408−124=99 (con trâu)
Số ngựa là : 99+12=111 (con)
Số bò là : 99×2=198 (con)
Đáp số : 99 con trâu ; 111 con ngựa ; 198 con bò
de hay viet mot bai van ve tinh yeu dat nuoc qua 3 tac pham hich tuong si chieu doi do va nuoc dai viet ta
Cảm hứng chủ đạo của vãn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là cảm hứng yêu nước. Tình cảm yêu nước sôi nổi, nồng nàn của dân tộc Đại Việt trong tiến trình lịch sử oai hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước đã chi phối và tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học để rồi kết tinh nên ba áng văn chương bất hủ: Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Đọc kĩ ba áng văn chương kiệt tác này, ta cảm nhận sâu sắc tấm lòng của những con người luôn nghĩ suy, lo lắng cho nước, cho dân. Đối với họ, nỗi niềm dân nước là niềm trăn trở lớn nhất, luôn canh cánh khôn nguôi.
Vừa mới được suy tôn lên ngôi hoàng đế, chưa kịp hưởng vinh hoa phú quý của một vị đế vương, Lí Thái Tổ (tức Lí Công uẩn) đã nghĩ ngay đến việc dời đô. Dường như ý nghĩ ấy đã nung nấu trong ông từ rất lâu rồi, nay mới có dịp thực hiện. Ở đây ta cũng cần nhận thức rõ rằng, việc dời đô của Lí Thái Tổ không phải là việc làm tùy tiện theo ý riêng của mình để thỏa mãn cái thói chơi ngông với đời. Cũng không phải là hành động xuất phát từ lợi ích cá nhân, gia tộc. Mà đó là tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân! Thấy việc định đô ở vùng đất hẹp Hoa Lư khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi, lòng ông xót đau lắm! Vận mệnh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, nhà vua không thể ngoảnh mặt làm ngơ, cũng không thể buông tay bất lực, ông quyết tâm tìm chọn một vùng đất mới để xây dựng kinh đô, nhằm làm cho nước cường, dân thịnh.
Tấm lòng lo nghĩ cho nước cho dân không chỉ day dứt trong tâm hoàng đế Thái Tổ, mà còn được bộc lộ sâu sắc ở vị danh tướng kiệt xuất của dời Trần: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Là một bậc vương thân, lại là vị chủ soái thống lĩnh toàn quân, trước hiểm hoạ xâm lăng, vận mệnh dân tộc đang ngàn cân treo sợi tóc Trần Quốc Tuấn vô cùng lo lắng. Nỗi căm giận quân giặc, sự đau xót trước cảnh đất nước bị sỉ nhục, tàn phá vò xé trái tim ông, trào dâng sôi sục trong ông: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Làm sao ông có thể không lo lắng khi sáu mươi vạn quân Mông Cổ đang lăm le ngoài biên ải. Chúng là một đội quân cuồng bạo tinh nhuệ lại có bề dày kinh nghiệm chinh chiến! Trong hàng ngũ các vương thân quý tộc, đã có những tư tưởng dao động cầu hoà. Thế mà các tướng dưới quyền ông vẫn có kẻ hoặc bàng quan thờ ơ, hoặc sa vào những thói ăn chơi hưởng lạc tầm thường vô bổ. Càng nghĩ, vị chủ tướng càng thấy lo lắng và đau lòng!
Nỗi niềm dân nước với Nguyễn Trãi càng trở nên sâu đậm! Nó không chỉ là niềm trăn trở, mà trở thành lẽ sống của ông, thành lí tưởng mà ông tôn thờ:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Những tấm lòng vì nước vì dân ấy, khiến ta xiết bao xúc động và cảm phục.
Tình cảm yêu nước của họ không chỉ dừng lại ở việc lo nghĩ cho nước cho dân mà đã phát triển thành một khát vọng lớn lao: Khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường.
Từ sự đau xót vì triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, đến quyết tâm dời đô về vùng đất thiêng Đại La nhằm làm cho nước cường dân thịnh, dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ, muôn vật phong phú tốt tươi, đất nước tồn tại lâu dài với sự trị vì của để vương muôn đời há chẳng phải là khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường của vị hoàng đế đó sao?
Nếu như khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường ở Lí Thái Tổ thể hiện ở việc quyết tâm dời đô, thì ở Trần Hưng Đạo, lại biểu thị bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù, ở ý chí sẵn sàng xả thân vì nước dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Để giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến, quyêt thắng, Trần Quốc Tuấn đã khéo động viên khích lệ tướng sĩ. Một mặt, ông chỉ ra cho họ cái nỗi nhục của kẻ làm tướng phải hầu quân giặc mà không biết tức, chỉ ra cho họ thấy cái nỗi ân tình sâu nặng mà ông và triều đình dành cho họ để họ nghĩ suy và báo đáp. Mặt khác ông vừa nghiêm khắc phê phán những thói bàng quan, thờ ơ, sự ham chơi hưởng lạc của tướng sĩ, vừa chân tình chỉ bảo cho họ thấy những sai lầm mà họ mắc phải. Tất cả nhằm kích thích lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng của kẻ làm tướng mà xông ra chiến trường giết giặc.
Còn đối với Nguyễn Trãi khát vọng ấy đã trở thành chân lí độc lập dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Càng yêu nước bao nhiêu, càng tự hào và tin tưởng về dân tộc mình bấy nhiêu!
Tuy nhà Lí mới thành lập và vẫn còn non trẻ, nhưng từ sâu thẳm trái tim mình, hoàng đế Thái Tổ vẫn vững tin ở thế và lực của đất nước cho phép họ đàng hoàng định đô ở một vùng đất rộng mà bằng, cao mà thoáng. Kẻ thù vẫn đang dòm ngó Đại Việt, nhưng họ tin vào khả năng của mình có thể chiến thắng kẻ thù, giữ yên giang sơn bờ cõi, để cho để vương muôn đời trị vì đất nước. Từ bài Chiếu toát ra một niềm tự hào cao độ về bản lĩnh và khí phách Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Cũng vẫn với niềm tin ấy, Hưng Đạo Vướng khẳng định với tướng sĩ rằng có thể “bêu đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ờ Cảo Nhai”, và rồi xã tắc của ông sẽ mãi mãi vững bền, nhân dân sẽ đời đời hạnh phúc, tiếng tốt sẽ mãi mãi lưu truyền.
Niềm tự hào Đại Việt được biểu hiện tập trung cao độ ở Nguyễn Trãi:
Ra đời cách chúng ta hàng thế kỉ, mà tinh thần yêu nước bất khuất của cha ông trong ba áng vặn chương cổ đại này, vẫn còn nồng nàn mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam.