Buổi đầu thời Văn Lang là vào năm nào
Bạn hãy cho biết Đài phát thanh Nam Bộ chính thức phát sóng buổi đầu tiên ở đâu, vào thời gian nào, nhạc điệu mở đầu suốt 07 năm phát sóng của Đài phát thanh Nam Bộ là bài nhạc nào, ai là tác giả?
Làm ơn bạn đừng hỏi mấy câu này trong cuộc thi "Long an quê hương tôi" nữa, mấy bữa nay bạn hỏi đi hỏi lại riết tôi nhìn cũng ngán rồi đó !! Tôi cũng ở Long An và cũng có thi bài này, bạn chưa nộp bài à? Tôi nộp bài này từ đời nào rồi ý !! ^^ :)
- Đài phát thanh Nam Bộ chính thức phát sóng buổi đầu tiên vào lúc 11h30 phút ngày 7/9/1945
- Nhạc hiệu mở đầu suốt 7 năm phát sóng của Đài phát thanh Nam Bộ là bài nhạc "Diệt phát xít" của Nguyễn Đình Thi
Phan tích nghệ thuật miêu tả của Tô Hoài qua hai đoạn trích đe men bênh vực ke yếu
a,nhà nước văn lang ra đời vào thời gian nào,đúng đầu là ai,đóng đô ở đâu?
B,em nhận xét gì về nhà nước tổ chức văn lang?
a) Nhà nước Văn Lang ra đời vào thế kỉ VII TCN, đứng đầu là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang (Bạch Hạc - Phú Thọ).
b) Tham khảo
- Nhà nước Văn Lang tổ chức rất đơn giản, chia làm 3 cấp (chỉ có vài chức quan)
+ Trung ương do vua Hùng đứng đầu, có Lạc hầu, Lạc tướng giúp.
+ Bộ do Lạc tướng đứng đầu.
+ Làng, bản (chiềng chạ) do Bồ chính đứng đầu.
- Nhà nước chua có quân đội, chưa có luật pháp.
- Nhà nước Văn Lang tuy đơn giản nhưng đã là tổ chức chính quyền cai quản nhà nước.
a Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỉ VII TCN. – Địa bàn chủ yếu của nhà nước Văn Lang thuộc khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay. – Kinh đô của nước Văn Lang đóng ở Phong Châu thuộc tỉnh Phú Thọ hiện nay.
bNhận xét: Nhà nước Văn Lang còn rất sơ khai nhưng nó đã đặt nền móng cho sự phát triển, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nước ta sau này.
a. Ra đời vào thế kỉ VII TCN , đứng đầu là Vua Hùng , đóng đô tại Phong Châu
b. Còn sơ khai , chưa có pháp luật thành văn , chữ viết,...
Em hãy cho biết Đài phát thanh Nam Bộ chính thức phát sóng buổi đầu tiên ở đâu, vào thời gian nào, nhạc hiệu mở đầu suốt 7 năm phát sóng của Đài phát thanh Nam Bộ là bài nhạc nào, ai là tác giả?
- Đài phát thanh Nam Bộ chính thức phát sóng buổi đầu tiên vào lúc 11h30 phút ngày 7/9/1945
- Nhạc hiệu mở đầu suốt 7 năm phát sóng của Đài phát thanh Nam Bộ là bài nhạc "Diệt phát xít" của Nguyễn Đình Thi
-sự ra đời của nhà nước văn lang:
+ở đâu
+vào thời gian nào
+ai đứng đầu
+địa điểm dựng kinh đô
vào khoảng năm 700 TCN
do vua Hùng đứng đầu
-Miền Bắc Việt Nam ngày nay
-khoảng năm 2800 TCN-208 TCN
-do Vua Hùng đứng đầu
-Phong Châu(Phú Thọ)
1. Nước Văn Lang ra đời năm nào ?
2. Nhà nước Văn Lang ra đời vào năm 208 TCN đúng hay sai ?
Tham khảo
1. Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN bởi An Dương Vương Thục Phán.
2.Sai
1.Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN .
2.Nhà nước Văn Lang ra đời vào năm 208 TCN là sai .
1. Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng TK 7 TCN
2. Nhà nước Văn Lang ra đời vào 208 TCN là sai vì thời kì đó là cuối thời nhà nước Âu Lạc (sau rơi vào tay nhà Triệu)
Em hãy cho biết Đài phát thanh Nam Bộ chính thức phát sóng buổi đầu tiên ở đâu, vào thời gian nào, nhạc hiệu mở đầu suốt 7 năm phát sóng của Đài phát thanh Nam Bộ là bài nhạc nào, ai là tác giả?
Giúp mình nha, mình sẽ tick cho, mình cần gấp lắm
Ngày 01 tháng 12 năm 1947, Đài Tiếng nói Nam bộ kháng chiến chính thức phát sóng tại kênh Quận vùng Đồng Tháp Mười, nay thuộc xã Hậu Thạnh Đông, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An. Đài được xem là công cụ sắc bén của Đảng để lãnh đạo, tuyên truyền cổ vũ đồng bào Nam bộ đứng lên chống quân xâm lược. Trong mưa bom bão đạn, dù phải di dời 10 lần, đổi tên 2 lần, đài vẫn chiến đấu ngoan cường, liên tục hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trong 7 năm phát sóng.
Trong những năm từ 1947 đến 1950, Đài Tiếng nói Nam bộ kháng chiến đã đóng cơ quan tại kênh 7 và kênh 9 xã Biển Bạch, nay là xã Tân Bằng, huyện Thới Bình. Tuy phải di chuyển liên tục, nhưng nhờ sự đùm bọc, cưu mang của chính quyền địa phương và nhân dân, đài vẫn đảm bảo an toàn phát sóng khi bị địch ném bom bắn phá.
Tiếng nói của chính nghĩa
Ngay sau khi Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, Đài Phát thanh Giải phóng cũng chính thức ra đời và ban đầu định đặt trụ sở tại vùng Lò Gò - Bến Tà Nốt, đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông (Tây Ninh). Tuy nhiên, do địch sử dụng con đường sát căn cứ với âm mưu chia cắt vùng giải phóng, Mặt trận Trung ương đã quyết định chuyển trụ sở đài vào vùng Mã Đà, chiến khu Đ (Đồng Nai).
Ông Ba Nhi (tên thật là Huỳnh Minh Lý), nguyên Phó Giám đốc Đài Phát thanh Giải phóng, là một trong những người thuộc thế hệ đầu tiên của Đài. Những ngày đầu tháng 4-1975, ông được chỉ thị tổ chức một đoàn gồm biên tập và kỹ thuật, đi trên hai xe gắn máy xuống T4 (khu Sài Gòn - Gia Định) tới phục ở Dầu Tiếng, chờ lệnh vào tiếp quản Sài Gòn. Đoàn đã chạy suốt ngày đêm, vượt qua các rừng cao su nhưng ra đến lộ lớn, xe phải chạy chậm lại vì từng đoạn, địch lại đắp mô đất làm chướng ngại vật, chỉ chừa cho đủ một chiếc xe qua… "Khi vào đến Sài Gòn, đoàn chúng tôi được lệnh tiếp quản Đài Phát thanh Quán Tre. Đến nơi, tôi thấy máy móc còn nguyên vẹn, chỉ có ăng-ten bị mảnh pháo làm hư hỏng… Đài đã phát sóng bản tin thắng trận đầu tiên truyền đi từ Sài Gòn, với cả ba lực lượng, gồm: Đài Giải phóng, Đài CP.90, công nhân chế độ cũ trở về với cách mạng".
Về sự kiện này, trong hồi ký, bà Hoàng Hà, nguyên Phó Giám đốc Đài Phát thanh Giải phóng thuật lại: "Lúc 12 giờ 7 phút ngày 30-4-1975, Đài Giải phóng tuyên bố: Sài Gòn đang chứng kiến những giờ phút vinh quang. Người đọc là cô phát thanh viên Thanh Liêm, có thâm niên 13 năm xướng ngôn, đánh máy, tải gạo; tên thật là Vương Thị Hải, nữ sinh Sài Gòn, đi kháng chiến". Còn ông Nguyễn Thành, nguyên Giám đốc Đài A đã ghi lại cảm xúc thật khó tả của mình lúc đó: "Ai ai cũng biểu lộ quyết tâm góp phần xứng đáng của mình vào trận cuối cùng này… Tin chiến thắng bay về tới tấp, kèm theo là những phóng sự nóng hổi của các phóng viên chiến trường gửi về".
Đại tá Nguyễn Viết Tá, phụ trách Ban biên tập phát thanh Quân Giải phóng miền Nam, không thể quên vinh dự lớn của ông khi tham gia viết "Thông cáo cuối cùng" mang danh của Bộ Chỉ huy Mặt trận Sài Gòn vào ngày 26-4-1975. "Tôi viết đến đâu, anh Nguyễn Văn Tòng, lúc đó là Cục phó Cục Chính trị Miền, sửa đến đó ngay trong đêm để sáng hôm sau thông qua Bộ Chỉ huy chiến dịch, kịp phát trên Đài Phát thanh Giải phóng, động viên kịp thời toàn dân ta xốc tới giành toàn thắng trên mặt trận Sài Gòn".
Đêm cuối của ngụy quyền Sài Gòn
Theo kế hoạch, sáng sớm ngày 26-4-1975, tại một địa điểm chỉ cách Sài Gòn chưa đầy 100km, một đoàn tiền phương của Đài Phát thanh Giải phóng, gồm 36 người, được Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam giao khẩn trương tiến vào Sài Gòn. Ban chỉ huy đoàn do ông Thanh Nho (Phó Giám đốc Đài) làm trưởng đoàn, cùng với ông Ba Nhi phụ trách kỹ thuật và lực lượng hậu cần, nội chính.
Theo ông Nguyễn Hữu Phước, việc tiếp quản diễn ra thần tốc. Theo chân mũi tiến công thần tốc vào Sài Gòn, một binh chủng đặc biệt, được phân công nhiệm vụ dập tắt tiếng nói của ngụy quyền Sài Gòn... Không nằm ngoài kế hoạch, chỉ vài giờ sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng từ chức thì Đài Phát thanh Giải phóng đã phát đi bản tin đanh thép đặt thời hạn bắt buộc các nhân viên tình báo và cố vấn quân sự Mỹ phải lập tức rời khỏi Sài Gòn. Ngày 28-4, Đài Phát thanh Giải phóng tiếp tục phát đi tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, buộc chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận yêu sách của ta đề ra. Cũng buổi chiều hôm ấy, trong một phát biểu ngắn gọn tại lễ nhậm chức, Tổng thống Dương Văn Minh đã đưa ra đề nghị ngừng bắn tức khắc và mở lại hội nghị hòa bình trong khuôn khổ Hiệp định Paris. Đây là thời điểm không có nguồn thông tin nào kịp thời, nhạy bén hơn làn sóng phát thanh.
Đến sáng 30-4, Quân Giải phóng bắt đầu vượt qua cầu Sài Gòn vào đến Tân Cảng, trước đó không lâu người Mỹ cuối cùng lao vào khoang trực thăng cất cánh từ nóc Tòa Đại sứ Mỹ rút khỏi Việt Nam. Đến 9h30 sáng hôm ấy, người ta nghe thấy trên Đài Phát thanh Giải phóng phát đi liên tục tuyên bố đơn phương của Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị ngừng bắn và chờ cách mạng vào để bàn giao chính quyền. Trong khoảng thời gian này, Đoàn tiền phương tiếp quản đài phát thanh chỉ cách Sài Gòn không bao xa nhưng phải di chuyển rất chậm, nhích từng bước từ Trảng Bàng, Củ Chi, Hóc Môn đến Ngã tư Bảy Hiền vì những dòng người đổ ra đường hết đợt này đến đợt khác vẫy tay, vẫy cờ chào mừng. "Mấy tiếng đồng hồ sau, chúng tôi mới về đến được Đài Phát thanh Sài Gòn" - ông Nguyễn Hữu Phước thuật lại.
10h45 ngày 30-4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390 dưới quyền chỉ huy của Vũ Đăng Toàn húc tung cánh cửa chính của dinh. 11h30, Trung úy Quân đội nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cùng lúc này, Đại úy, Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào Dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Khoảng 12h, tại Đài Phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thay mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm Dinh Độc Lập, Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng.
Khoảng 20h, là giờ phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất. Từ đài phát thanh vang lên nhạc hiệu mở đầu "Giải phóng miền Nam" và giọng đọc trang trọng của phát thanh viên gửi đến toàn thể đồng bào, chiến sĩ: "Đây là Đài Phát thanh Sài Gòn, phát từ thành phố Sài Gòn". Sau đó là những thông báo đầu tiên của chính quyền cách mạng về các chính sách đối với vùng giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cùng các thông tin người dân xuống đường chào đón cách mạng và kỷ niệm ngày trọng đại: Bắc - Nam sum họp một nhà…
Chương trình phát thanh cuối cùng của Đài Giải phóng tạm biệt khán giả diễn ra vào đêm 31-8-1976 và hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình sau 14 năm 7 tháng hoạt động gian khổ. Đài được sáp nhập với Đài Tiếng nói Việt Nam, sau đó một số lại được tách ra thành lập Đài Tiếng nói nhân dân TP Hồ Chí Minh ngày nay.
nhà nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào? nêu ý nghĩa ra đời của nhà nước Văn Lang?
TK:
- Nước Văn Lang được ra đời vào thời gian năm 700 TCN.(Tức là thế kỉ VII TCN.)
- Ý nghĩa sự ra đời của Nhà nước Văn Lang: Tuy còn sơ khai, chưa có pháp luật thành văn và chữ viết,… nhưng sự ra đời của Nhà nước Văn Lang đã mở ra thời kì dựng nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
- Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỉ VII TCN.
- Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã:
+ Mở đầu thời kì dựng nước và giữ nước của người Việt; mở đầu cho nền văn minh sông Hồng.
+ Chứng tỏ quốc gia cổ đại của người Việt được hình thành từ sớm, nước Việt Nam có lịch sử và truyền thống lâu đời.
+ Đặt cơ sở cho sự phát triển cao hơn của nhà nước Âu Lạc (ở giai đoạn sau).
Nước văn lang ra đời vào năm nào?
Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN
Theo tác giả, sông đẹp hiền hòa vào những thời gian nào?
A Buổi sáng, mùa xuân, mùa hạ, buổi chiều, buổi tối
B Buổi chiều, mùa thu, đầu mùa đông
C Buổi sáng, buổi chiều, đầu mùa đông, mùa xuân, mùa hạ
SÔNG TRÀ YÊU DẤU
Nhắc đến làng Sung Tích là nhắc đến hạ lưu sông Trà - quê hương yêu dấu của tôi. Tôi không biết dòng sông này bắt nguồn từ ngọn núi nào, nhưng tôi chỉ biết nó đã có từ rất lâu. Sông dài và rộng lắm. Sông mênh mông như tấm lòng người mẹ. Bên bờ, những rặng cây xanh mát soi bóng xuống dòng sông.
Buổi sáng khi những tia nắng sớm chiếu xuống dòng sông, tôi thấy nó ấm áp, hiền hòa làm sao. Khi những chiếc thuyền rời bến đi đánh lưới hay chở khách đi, những làn sóng đập nhẹ vào mạn thuyền như bàn tay người mẹ vỗ về con trước lúc đi xa.
Chiều chiều, khi ánh hoàng hôn vừa tắt, vài tia nắng vàng còn sót lại rọi lên mặt sông tạo nên một bức tranh lung linh tuyệt đẹp. Lúc này, trên dòng sông vẫn còn lại vài chiếc thuyền cập bến sau một ngày đi đánh lưới mệt mỏi. Buổi tối, khi ông trăng tròn vành vạnh cắt ngang đầu ngọn tre, soi bóng xuống dòng sông lấp lánh thì mặt sông gợn sóng lung linh, phủ đầy một màu vàng óng ánh. Vào mùa xuân và mùa hạ, nước sông xanh thẳm, hiền hòa, yên ả. Vào cuối thu và đầu mùa đông, sau những trận mưa lớn thì nước sông đầy ăm ắp, đục ngầu, tạo nên những trận lụt dữ dội. Nhưng khi sự “giận dữ” qua đi thì vẫn còn lại một lượng phù sa màu mỡ cho những cánh đồng, hứa hẹn một mùa bội thu. Sông còn là nguồn lợi lớn của quê tôi vì sông cho ngư dân nhiều cá tôm. Dòng sông đã gắn bó biết bao kỉ niệm tuổi thơ với tôi. Bởi thế nó như một người bạn thân thiết của tôi.
Sau này dù có đi đâu thì tôi vẫn thiết tha yêu dòng sông Trà quê mình bằng một tình yêu muôn thuở - tình quê hương.