Soạn văn lớp 7 bài : đại từ
Hướng dẫn soạn bài " Tam đại con gà" - Văn lớp 10
Câu 1 (trang 79 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Câu chuyện buồn cười ở việc anh học trò ít chữ nhưng lại khoe khoang và đi dạy chữ.
Mâu thuẫn truyện ngày càng được đẩy tới đỉnh điểm khi thầy liên tiếp được đặt vào những tình huống:
+ Lần thứ 1: Thầy không biết chữ kê, bị học trò hỏi gấp thầy nói liều “dủ dỉ là con dù dì”- sự liều lĩnh và dốt nát được bộc lộ.
+ Lần thứ 2: Người ta cười về sự giấu dốt và sĩ diện hão của ông thầy “thầy xấu hổ bảo trò đọc khe khẽ”, anh ta dùng sự láu cá để lấp liếm che giấu dốt
+ Lần thứ 3: Điểm buồn cười khi anh chàng tìm tới thổ công, thổ công ngửa cả ba đài âm dương, thầy đắc ý bệ vệ kêu trẻ đọc to. Cái dốt lúc này được phô trương
+ Lần thứ 4: Cái dốt bị lật tẩy, Thầy lòi ra cái đuôi dốt nhưng vẫn gượng gạo giấu dốt, cái dốt tầng tầng lớp lớp chồng chất lên nhau
- Trong mỗi lần giải quyết tình huống, cái dốt của thầy đồ dần được bộc lộ chân tướng. Thầy càng che giấu cái dốt càng chồng chất.
- Mâu thuẫn là thầy dốt nhưng không chịu nhận dốt, liên tục ngụy biện, giấu dốt
Câu 2 (trang 79 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Ý nghĩa phê phán của truyện:
- Phê phán bộ phận người dốt nát nhưng thích tỏ ra hay chữ
- Phê phán thói mê tín dị đoan trong dân gian
- Tuy nhiên câu chuyện này vẫn là câu chuyện giải trí, chưa tới mức đả kích và tiêu diệt đối tượng.
Luyện tậpBài 1 (trang 79 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Hành động của nhân vật:
- Thầy không biết chữ kê nên yêu cầu học trò đọc nhỏ: muốn che giấu cái dốt
- Sau khi xin đài âm dương, thầy bệ vệ bảo trẻ đọc to: đắc chí tin vào cái dốt
- Thầy cãi cố, bào chữa cho cái dốt trước mặt nhà chủ: tiếng cười được đẩy lên đỉnh điểm, hành động này của thầy bộc lộ rõ nhất bản chất nhân vật, khiến tiếng cười bật ra thoải mái nhất.
Lời nói của nhân vật:
+ Dủ dỉ là con dù dì
+ Dạy cháu biết tới tam đại con gà
+ Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà
Các lời nói về sau chứa đựng sự phi lý, ngu dốt mà nhân vật mang ra để chống chế, che dấu cái dốt của bản thân.
Hướng dẫn soạn bài "Nước Đại Việt ta" - Nguyễn Trãi - Văn lớp 8
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi trở thành nhân vật lịch sử lỗi lạc, hiếm có. Ông được UNE SCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ, phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập,...
2. Hoàn cảnh ra đời của bài Cáo
Đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng (tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, buộc Vương Thông phải rút quân về nước), Nguyễn Trãi đã thừa lệnh vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) soạn thảo Bình Ngô đại cáo để bố cáo với toàn dân về sự kiện có ý nghĩa trọng đại này.
3. Thể loại
Cáo là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ, thường được dùng cho các phát ngôn chính thức, hệ trọng của vua chúa hoặc thủ lĩnh, nhằm tổng kết một công việc, trình bày một chủ trương xã hội chính trị cho dân chúng biết. Cáo đã có ở Trung Quốc từ thời Tam Đại.
Cáo có thể được viết bằng văn xuôi, nhưng thường là được viết bằng biền văn. Được biết đến nhiều nhất trong thể loại này ở văn học chữ Hán của Việt Nam là Bình Ngô đại cáo (1428) do Nguyễn Trãi soạn, nhân danh vua Lê Thái Tổ tuyên cáo với thiên hạ về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh, được viết theo thể văn tứ lục". (Theo Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001).
4. Đoạn trích
Văn bản này rút từ phần mở đầu bài Bình Ngô đại cáo(1) nổi tiếng, Nguyễn Trãi viết để tổng kết mười năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Đoạn trích đã thể hiện một trong những nội dung cơ bản nhất của tác phẩm, đó là lòng tự hào dân tộc, ý thức độc lập tự chủ đã phát triển đến đỉnh cao.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn này nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
2. Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo.
Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc.
Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh.
3. Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bài thơ Sông núi nước Nam, thì ở Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
4. Những nét đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn trích:
- Tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,…
- Biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,…).
- Những câu văn biền ngẫu chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
5*. Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay :
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với Nam quốc sơn hà, khái niệm quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi hoàn thiện hơn nhiều. Vậy là sức mạnh của nhân nghĩa, một khái niệm chung chung trừu tượng đã được người anh hùng dân tộc làm cho sinh động bằng chính thực tiễn lịch sử oai hùng của dân tộc.
6*. Trình tự lập luận của đoạn trích có thể được mô hình hoá như sau:
NGUYÊN LÍ NHÂN NGHĨA |
Yêu dân | Trừ bạo |
CHÂN LÍ VỀ SỰ TỒN TẠI ĐỘC LẬP CÓ CHỦ QUYỀN CỦA DÂN TỘC |
SỨC MẠNH CỦA NHÂN NGHĨA, CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC |
III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
1. Cách đọc
Đọc bằng âm điệu hùng hồn, chú ý cách ngắt giọng, thể hiện tính chất đối của thể văn biền ngẫu.
2. So sánh với bài thơ Sông núi nước Nam để chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Gợi ý: Xem lại câu 3 phần Kiến thức cơ bản.
(1) Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ (Lê Lợi) soạn thảo là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi (tức đầu năm 1428), sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, buộc Vương Thông phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Bài cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục (từng cặp câu, mỗi câu mười chữ ngắt theo nhịp 4/6), kết cấu cũng gồm bốn phần như thể cáo nói chung:
- Luận đề chính nghĩa (từ "Từng nghe: ..." đến "Chứng cứ còn ghi");
- Tố cáo tội ác của giặc (từ "Vừa rồi ..." đến Ai bảo thần dân chịu được";
- Quá trình kháng chiến và thắng lợi (từ "Ta đây" đến "chưa thấy xưa nay";
- Lời tuyên bố hoà bình (từ "Xã tắc từ đây vững bền ..." đến "Ai nấy đều hay".
Như vậy, đoạn trích Nước Đại Việt ta trong sách giáo khoa thuộc phần đầu của bài Bình Ngô đại cáo.
Câu 1: Khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí: sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt. Chúng ta là nước riêng, có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục riêng, có lịch sử độc lập với nhiều triều đại, có chế độ, chủ quyền ngang hàng với các triều đại Trung Quốc.
Câu 2: Qua 2 câu "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là thương dân, bảo vệ đất nước độc lập để yên dân. Muốn thực hiện điều yên dân, phải trừ bọn hung bạo, đó là bọn giặc Minh xâm lược. Nhiệm vụ hàng đầu của nghĩa quân là vì dân mà đánh giặc xâm lược.
Câu 3:
Để khẳng định chủ quyền của dân tộc tác giả đã dựa vào các yếu tố: nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ nhà nước riêng, bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc.
Hai bài Nước Đại Việt ta và Sông núi nước Nam đều khẳng định chủ quyền riêng của dân tộc, ngang hàng với các vua Trung Quốc. Nhưng ở bài Nước Đại Việt ta, tác giả có nói thêm văn hiến, phong tục, lịch sử các triều đại.
Câu 4: Những nét đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn trích:
- Tác giả dùng nhiều những từ ngữ khẳng định về sự tồn tại lâu đời, hiển nhiên, về nhiều phương diện (văn hiến, lãnh thổ, triều đại, ...), đồng thời kể ra những kẻ xâm lược phương Bắc đã chịu thất bại mà sử sách còn ghi rõ.
- Lời văn ngắn gọn, ý tứ phong phú, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén.
Câu 5:
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có
Vậy là sức mạnh của nhân nghĩa, một khái niệm chung chung trừu tượng đã được người anh hùng dân tộc làm cho sinh động bằng chính thực tiễn lịch sử oai hùng của dân tộc.
Câu 1:
- Tiền đề của bài, tác giả khẳng định những chân lý:
+ Sự tồn tại độc lập về lãnh thổ, chủ quyền.+ Có phong tục, tập quán.
+ Có nền văn hiến lâu đời.
+ Có lịch sử độc lập với nhiều triều đại.
→ Khẳng định sự tồn tại độc lập của quốc gia bằng lòng tự tôn, niềm tự hào dân tộc.
Câu 2:
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai câu:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
- Nhân nghĩa theo quan điểm của Nguyễn Trãi có nghĩa là: yên dân, trừ bạo.
+ Nhân nghĩa là khoan dung, an dân, vì dân.
+ Nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng lý tưởng đất nước.
+ "yên dân" là thương dân, lo cho dân
+ "trừ bạo" lo diệt trừ giặc ngoại xâm, làm đất nước độc lập (diệt giặc Minh).
→ Tư tưởng "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi có nghĩa là phải yên dân, yêu thương bảo vệ nhân dân. Tư tưởng này mang tính triết lý, bao trùm toàn bộ cuộc đời và các sáng tác của ông.
Câu 3:- Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, tác giả dựa vào những yếu tố:
+ Nền văn hiến từ lâu đời: nền văn hiến đã lâu
+ Phong tục tập quán
+ Lịch sử hình thành và phát triển riêng
+ Chế độ nhà nước riêng, bình đẳng, ngang tầm với các triều đại Trung Quốc
- Bài thơ Sông núi nước Nam của tác giả Lý Thường Kiệt đề cập tới sự độc lập lãnh thổ và chủ quyền nước Nam- vua Nam ở.
- Tới Bình Ngô Đại cáo Nguyễn Trãi vẫn khẳng định về lãnh thổ, chủ quyền. Có mở rộng, khẳng định nền văn hiến lâu đời, phong tục, lịch sử triều đại.
+ Thể loại văn biền ngẫu giúp cho việc diễn giải ý thơ được chi tiết và kỹ càng hơn.
Câu 4:
- Nghệ thuật của đoạn trích được thể hiện qua:
+ Cách sử dụng từ ngữ: khẳng định được sự tồn tại lâu đời, hiển nhiên về nhiều phương diện.
+ Thể cáo được viết bằng lối văn biền ngẫu, có đối, các câu dài ngắn không bị gò bó, các cặp có ai vế đối nhau.
+ Lời lẽ có tính hùng biện, lập luận đanh thép, lí luận sắc bén.
+ Kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.
Câu 5:
- Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi trong đoạn này thể hiện rõ ở cách lập luận của tác giả:
+ Quan điểm, tư tưởng "nhân nghĩa" xuyên suốt các tác phẩm .
+ Khẳng định lẽ phải thuộc về ta, địch là kẻ bạo ngược, ắt sẽ bị tiêu diệt.
+ Việc tiêu diệt kẻ thù là việc tất yếu bởi đất nước ta độc lập.
+ Minh chứng cho sự độc lập: lãnh thổ, văn hiến, phong tục, triều đại.
- Lý lẽ, dẫn chứng của tác giả:
+ Dẫn ra sự thất bại thảm hại của những kẻ bạo ngược, làm điều trái nhân nghĩa: Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô Mã, Toa Đô.
+ Lấy chứng cớ từ sử sách- điều không thể chối cãi.
+ Lời lẽ đanh thép, hùng hồn, minh chứng cho sức mạnh chính nghĩa.
+ Thể hiện niềm tự hào dân tộc
Câu 6:
- Sơ đồ khái quát trình tự lập luận của đoạn trích Nước Đại Việt ta
Hướng dẫn soạn bài: "Một thời đại trong thi ca" - Trích Hoài Thanh - văn lớp 11
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Hoài Thanh (1909 - 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng, Hoài Thanh từng tham gia phong trào yêu nước và bị bắt.
Hoài Thanh viết văn từ năm mới ngoài 20 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam.
2. Tác phẩm
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.
II. Trả lời câu hỏi
1. Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:
- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở, cái kiệt xuất, cài tầm thường, lố lăng. Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn bài để so sánh, để cho thật hiểu cái "tinh thần của thơ mới" là không phải dễ.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái "tinh thần thơ mới" khó là không phải ranh giới thơ mới - thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra.
Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những nhận diện sau:
- "Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn phải sánh bài hay với bài hay vậy."
- "... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".
2. Theo tác giả, điều cốt lõi làm nên "cái tinh thần thơ mới" là "cái tôi". Nhà phê bình giải thích:
- "Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa - hay thơ cũ và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi".
- Chữ tôi trước đây, nếu có thì cũng phải ẩn mình sau chức ta - một chữ có thể chỉ chung nhiều người.
- Chữ tôi bây giờ là chữ tôi theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo "một quan nhiệm chưa tứng thấy ở xưa này: quan niệm cá nhân". Nó " xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!".
3. Tác giả đã lý giải " chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ, "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:
- "Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lý Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Công Trứ. Cái tôi ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng, mất lòng tin.
- Nói chung thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên.
4. Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả và tiếng Việt vì họ nghĩ: "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để tin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".
5. Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng chúng ta vẫn thấy dễ hiểu và hấp hẫn bởi: Khi đặt vấn đề tìm đặc sắc của thơ mới, tác giả nói ngay cái khó của vấn đề. Cái khó là cái mới và cái cũ lại thường gặp ở ngay trong các nhà thơ cũ và mới. Cái cũ và cái mới thường liên tiếp nhau qua các thời đại.
- Từ cách nhìn đó, tác giả nêu cách giải quyết bài toán một cách thuyết phục là không nên so sánh từng bài một mà phải so sánh trên đại thể.
- Đặt "cái tôi" trong quan hệ với cái ta để tìm xem những chố giống nhau và khác nhau.
- Đặc biệt là khi tìm cái mới của thơ mới và của các nhà thơ mới, tác giả nhìn vấn đề tong mối quan hệ với thời đại, với tâm lý con người thanh niên đương thời để phân tích sâu sắc "cái đáng thương, đáng tội nghiệp", cái "bi kịch" ở họ.
Bài viết có một tầm nhìn bao quát về "cái tôi", "cái ta", có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách tĩnh tại, đơn giản một chiều.
Bài viết có nhiều đoạn có tính khái quát cao nhưng cách viết rất già hình ảnh, rất mềm mại, uyển chuyển vì thế mà nó có sức khêu gợi cảm xúc cũng như hứng thú ở người đọc.
Hướng dẫn soạn bài "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" của Ph. Ăng-ghen - văn lớp 11
I. Tác giả - Tác phẩm
1.Tác giả
Phri-đrích Ăng - ghen (1820 - 1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân của C.Mác. Ông còn là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng trong phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản. Di sản lí luận của Ăng-ghen là một phần quan trọng tronglys luận của chủ nghĩa Mác.
2. Tác phẩm
Bài điếu văn được viết sau thời điểm Các Mác qua đời và được đọc tại lễ an táng Các Mác. Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời mỗi con người: thời điểm kết thúc sự hiện diện của con người đó trong thế giới của những người còn sống. Đối với các vĩ nhân đây cũng là thời điểm tổng kết cuộc đời bằng sự nhìn nhận đánh giá của bạn bè thân hữu, của đồng chí, đồng đội. Bản thân của sự đánh giá cho thấy tầm vóc của người được đánh giá. Điều đáng lưu ý là bài điếu văn này là sự đánh giá của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân. Điều đó làm cho bài điếu văn có một tầm vóc và ý nghĩa sâu sắc đặc biệt.
II. Trả lời câu hỏi
1. Bài điếu văn có 7 đoạn và được chi làm ba phần:
- Phần mở đầu gồm đoạn 1 và 2. Đây là phần cho thấy không gian và thời gian liên quan đến sự ra đi của C.Mác. Thời gian và không gian ở đây là bình thường. Trong cái bình thường ấy là một vĩ nhân (cái khác thường, phi thường). Đây là hình thức đòn bẩy để tạo ra tầm vóc cho sự nhấn mạnh.
Tiếp đó là cách giới thiệu, không phải như giới thiệu một con người bình thường mà như một con người của một lĩnh vực đặc biệt. Trong cách giới thiệu đó, C.Mác hiện ra như một vĩ nhân của thế kỉ mà ông sống (thế kỉ XIX) mà tính chất vĩ nhân thể hiện khá rõ qua tính chất "nhà tư tưởng hiện đại".
- Phần thứ hai (gồm đoạn 3,4,5 và 6) cũng là trọng tâm của bài, đề cập đến những cống hiến to lớn của Mác đối với sự nghiệp phát triển nhân loại.
- Phần kết thúc (đoạn 7) đề cập tới giá trị tổng quát các cống hiến của Mác. Các cống hiến đó đều hướng vào một mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân loại.
2. Những đóng góp của Mác khiến ông trở thành "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số các nhà tư tưởng hiện đại":
- Cống hiến đầu tiên của C.Mác là "tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người" qua các thời ký lịch sử, mà bản chất của quy luật đó là cơ sở hạ tầng, quyết định kiến trúc thượng tần của xã hội.
- Cống hiến thứ hai là "tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra". Đó là quy luật về giá trị thặng dư.
- Cống hiền thứ ba, đó là sự kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, biến các lý thuyết cách mạng - khoa học thành hành động cách mạng, bởi vì "khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng" và " trước hết Mác là một nhà cách mạng", ở Mác "đấu tranh là hành động tự nhiên.
- Các cống hiến này được sắp xếp theo trật tự thăng tiến, cống hiến sau lớn hơn cống hiến trwocs, mặc dù chỉ có được một trong các cống hiến ấy cũng đã có thể xem là một vĩ nhân rồi.
3. Để làm nổi bật tầm vóc vĩ đại của Các Mác, Ăng-ghen đã sử dụng biện pháp so sánh tầng bậc. Hình thức nghệ thuật ấy trở đi trở lại nhiều lần trong bài điếu văn:
Đoạn văn mở đầu chỉ có hai câu: Câu thứ nhất thông báo thời điểm C.Mác qua đời. Câu thứ hai cho biết sự ra đi thanh thản của bậc vĩ nhân ấy với một niềm nuối tiếc của người thân. Đoạn văn mở đầu đã tạo ra không khí để thể hiện một tình cảm tiếc thương vô hạn của những người còn sống đối với sự ra đi của Mác, đồng thời qua đó cũng cho thấy sự kính trọng của những người bạn, những người đồng chí của Mác đối với người đã ra đi.
Đoạn thứ hai cũng chỉ có hai câu văn và cũng chung giọng điệu tiếc thương và kính trọng ấy. Trong lời văn, Mác hiện ra với hai tư cách: một nàh cách mạng của giai cấp vô sản và một nhà khoa học lịch sử. Kết cấu trùng điệp được sử dụng ở đây nhằm nhấn mạnh sự vĩ nhân của Mác:
Con người đó - ra đi = (là) một tổn thất không sao lường hết được.
Từ đó, cái chết ấy tạo ra một nỗi trống trải đối với nhân loại, đối với khoa học (tăng cấp). Sự kính trọng và thương tiếc theo đó mà được nhân lên nhiều lần. Cái chết của Mác trở thành nỗi mất mạt lớn của nhân loại.
Phần thứ hai của bài điếu văn, như chúng ta đã biết là phần tập trung đánh giá sự nghiệp của người đã khuất. Trong phần này, tác giả vẫn sử dụng hình thức lập luận theo lối kết cấu tầng bậc kết hợp với so sánh.
Mác được so sánh với các vĩ nhân khác cùng thời đại, với những thành tựu khoa học nổi tiếng của thời đại đó. Đó là sự so sánh đặc biệt: so sánh với những tinh hoa cùng thời đại, so sánh với những phát minh, những cống hiến quan trọng vượt tầm thời đại mà không phải ain cũng có thể làm được và không phải đã có từ thời đại trước. Cũng cần lưu ý là sự so sánh ở đây cũng mang tính chật một sự so sánh trùng điệp, tạo ra hiệu quả tăng cấp.
4. Bằng việc trình bày những phát hiện khoa học của Mác, Ăng-ghen đã gián tiếp thể hiện sự ngợi ca đối với những đóng góp và cống hiến của Mác cho nhân loại. Đồng thời, ngợi ca công lao của người đã khuất cũng chính là khẳng định và thể hiện sự thương tiếc của Ăng-ghen đối với Mác.
5. Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Mác "tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước do nó dựng lên", nói cách khác là Mác chống lại bất công, chống lại cường quyền và bạo quyền.
Mác bênh vực cho những người lao động, những người cùng khổ. Mác đem đến cho họ niềm tin vào hạnh phúc trong một thế giới, thế giới mà ở đó, người lao động thực sự là chủ nhân của xã hội.
Các cống hiến của Mác tất nhiên là tài sản chung của nhân loại. Các cống hiến ấy không chỉ có giá trị lí luận mà nó còn có giá trị hành động, góp phần mở đường cho nhân loại tiến lên.
vở bài tập ngữ văn lớp 7 tập 1 bài : ĐẠI TỪ ( ko chép mạng )
Soạn văn bài Quan âm Thị Kính lớp 7 không chép mạng
. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “thấy sự bất thường”): Thị Kính xén râu mọc ngược dưới cằm cho chồng
- Phần 2 (tiếp đó đến “bóp chặt trong tay”): Thị Kính bị nhà chồng vu oan là giết chồng, nàng không thể minh oan và cùng cha là Mãng Ông trở về nhà
- Phần 3 (còn lại): Thị Kính từ biệt cha mẹ, quyết định giả dạng nam nhi tu hành.
Đọc hiểu chi tiết:
1. Thị Kính xén râu mọc ngược dưới cằm cho chồng
- Khung cảnh gia đình:
+ Chồng dùi mài kinh sử để nhập hội long vân
+ Vợ ngồi khâu quần áo, dọn kỉ cho chồng, quạt cho chống nghỉ
⇒ Khung cảnh gia đình ấm cúng, hạnh phúc. Thị Kính dịu dáng, hết mực thương yêu, quan tâm chồng
- Thị Kính thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng:
+ Tâm trạng: băn khoăn
+ Suy nghĩ: trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta, dạ thưa chồng lòng thiếp sao an
+ Hành động: cầm dao khâu xén chiếc râu
- Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, kêu lên
2. Thị Kính bị nhà chồng vu oan và phải theo cha về nhà
- Thiện Sĩ: vừa chợp mắt đã thấy dao kia kề cổ
- Sùng bà:
+ Nói về nhà mình: giống nhà bà đây giống phượng giống công, nhà bà đây cao môn lệnh tộc, trứng rồng lại nở ra rồng
⇒ Khoe khoang, hãnh diện, vênh váo
+ Nói về Thị Kính: liu điu lại nở ra dòng liu điu, mày là con nhà ốc, cả gan say hoa đắm nguyệt, dụng tình bất trắc, gái say trai lập chí giết chồng,mặt trơ như mặt thớt,…
⇒ Coi thường, dè bỉu, khinh bỉ, mắng nhiếc, lăng nhục
+ Hành động: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa đầu lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống…
⇒ Thô bạo, tàn nhẫn
- Thị Kính:
+ Hết lời phân bua, minh oan cho bản thân nhưng không được
+ Hành động: theo cha về nhà, đi theo cha mấy bước,quay vào nhìn từ tràng kỉ đến sách, thúng khâu, cầm chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay
⇒ Sự bất lực của Thị Kính
3. Thị Kính từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi tu hành
- Cuộc sống sau khi bị oan:
+ Sát hại chồng nên không thể ở lại nhà được
+ Xấu hổ không về được nhà cha mẹ
+ Không thể lấy người khác
+ Bỏ đi xa thì mang tiếng không đoan chính
+ Minh oan không ai tin
⇒ Thị Kính rơi vào đau khổ, bế tắc
- Thị Kính quyết định giả dạng nam nhi để đi tu
- Ý nghĩa hành động đi tu của Thị Kính:
+ Tích cực: Thị Kính muốn sống để tỏ rõ mình là người đoan chính
+ Tiêu cực: Thị Kính không tìm ra nguyên nhân nỗi khổ của mình,không đấu tranh mà nhẫn nhịn, cam chịu
⇒ Thị Kính không thể thoát khỏi đau khổ.
Hướng dẫn soạn bài " Quan Âm Thị Kính" - Văn lớp 7
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Thể loại
Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.
2. Tác phẩm
Văn bản Quan Âm Thị Kính là phần lời (kịch bản) của một vở chèo - một loại hình văn nghệ dân gian kết hợp nhiều hình thức như hát, múa, diễn tích, kể chuyện,... được trình bày trên sân khấu (còn gọi là chiếu chèo).
Tuy chỉ là kịch bản sân khấu nhưng Quan Âm Thị Kính (và trích đoạn Nỗi oan hại chồng) cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, nhất là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ,...
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đọc kĩ phần tóm tắt để hiểu nội dung của cả vở chèo.
2. Đọc kĩ đoạn trích và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó, các từ cổ hiện ít dùng.
3. Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả năm nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo:
- Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
- Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính (mụ ác và nữ chính là hai loại nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo). Thị Kính tiêu biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.
4. Thị Kính vốn được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu nhà Thiện Sĩ, một gia đình địa chủ. Bởi vậy, cảnh sinh hoạt ở đầu đoạn trích không thật quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ. Mặc dù vậy, cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách,... vẫn gợi lên một bầu không khí thật đầm ấm, hạnh phúc.
Nổi bật lên trong đoạn này là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính đã dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng. Cũng vì yêu chồng mà khi Thiện Sĩ đã ngủ, Thị Kính chăm chú nhìn và phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình thường, giản dị "Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta" (nhân dân ta còn có câu "Xấu chàng hổ ai" cũng có nghĩa tương tự), Thị Kính đã toan lấy dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm rất nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
5. Cả trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà đều chứng tỏ là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại còn coi thường những người lao động nghèo khổ.
- Về hành động: Sùng bà dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (một kiểu hạ nhục người khác). Sùng bà không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh cho mình, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình.
- Về ngôn ngữ: Sùng bà đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ đối với con, cũng không phải là của một bà mẹ chồng đối với con dâu của mình.
Lời lẽ, hành động của Sùng bà chứng tỏ mụ là người tàn nhẫn và độc ác, không những thế lại còn hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, dẫn đến coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Điều đó cho thấy Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì nghĩ rằng Thị Kính có ý làm hại con mụ mà vì sự chênh lệch đẳng cấp xã hội giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà lại dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.
6. Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực kêu oan. Thị Kính đã kêu oan đến năm lần. Bốn lần trước là hướng đến mẹ chồng và chồng ("Oan con lắm mẹ ơi!"; "Oan thiếp lắm chàng ơi!"). Cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ thêm dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính là dâu con trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của Mãng ông: "Oan cho con lắm à?". Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
7. Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thoả, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho họ phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nói: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: "Đây này! Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!". Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà.
Xung đột kịch đã được đẩy đến mức cao nhất: Thị Kính không những bị đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị chửi mắng, hành hạ còn phải chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã, khổ sở.
Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ.
8. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay.
Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa:
Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo
Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi
Những cặp từ ngữ đối lập bấy lâu – bỗng; sắt cầm – chăn gối lẻ loi,... với sắc thái ý nghĩa đối lập đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh "sắt cầm tịnh hảo" (ý nói tình vợ chồng hoà hợp đầm ấm) đến cảnh "chăn gối lẻ loi" (vợ chồng chia lìa) chỉ là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Bị đẩy ra khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hoá bơ vơ giữa cái vô định của cuộc đời.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
2. Cách đọc
Chèo được viết ra để diễn. Với một vở chèo cổ như Quan Âm Thị Kính, các nhân vật đối đáp bằng những giọng điệu phức tạp (hát lệch, nói đếm, hát sắp, nói lệch,...), rất khó để thể hiện đúng giọng điệu của nhân vật trên sân khấu. Để khắc phục, người đọc cần căn cứ vào diễn biến sự kiện để hình dung tâm trạng của các nhân vật, từ đó xác định giọng điệu tương đối phù hợp (tất nhiên là chỉ với yêu cầu đọc).
3. Trích đoạn Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.
Từ nội dung của vở chèo, thành ngữ “Oan Thị Kính” dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức và không thể nào giãi bày được.
I. Tác phẩm
- Trong lịch sử nghệ thuật chèo, "Quan Âm Thị Kính" là vở diễn rất nổi tiếng tiêu biểu cho sân khấu chèo về phương diện : tích truyện, nhân vật, kịch tính, làn điệu.....Tích truyện trong vở chèo "Quan Âm Thị Kính" được khai thác từ truyện Nôm " Quan Âm tân truyện" (còn gọi là "Quan Âm Thị Kính" ) và từ lâu được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Đoạn trích " Nỗi oan hại chồng" thuộc phần một của vở chèo. Thiện Sĩ đang ngủ, Thị Kính thấy sợi râu chồng mọc ngược, tiên đang may vá toan lấy dao khâu xén đi. Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, hoảng sợ hô toáng lên. Sùng ông, Sùng bà không nghe lời Thị Kính giải thích, nhất quyết đổ cho nàng tội có ý giết chồng, đuổi về nhà bố mẹ đẻ.
Đoạn trích thể hiện sâu sắc mâu thuẫn giai cấp thông qua xung đột hôn nhân, gia đình mà nạn nhân trực tiếp của mâu thuẫn là người phụ nữ, những người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu biết bao khổ cực, oan trái. Thị Kính là con nhà nghèo, về làm dâu nhà giầu, chỉ vì vô tình mà mang tiếng giết chồng, một nỗi oan không thể gột rửa, không thể thanh minh, cuối cùng đành xuống tóc đi tu mà vẫn không thoát khỏi số phận oan nghiệt. Đây là hình tượng điển hình cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
II. Trả lời câu hỏi
1. Trong đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" có năm nhân vật : Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả năm nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột, trong đó Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo :
- Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.
- Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính.Thị Kính tiêu biểu cho người dân thường, nhất là cho người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt trong xã hội cũ.
2. Thị Kính vốn được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo nhưng lại về làm dâu nhà Thiện Sĩ, một gia đình địa chủ. Bởi vậy, cảnh sinh hoạt ở đầu đoạn trích không thật quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ. Mặc dù vậy, cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách,... vẫn gợi lên bầu không khí thật đầm ấm, hạnh phúc.
Nổi bật lên đó là hình ảnh Thị Kính, người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng. Khi chồng ngủ, Thị Kính đã dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng. Cũng vì yêu chồng mà khi Thiện Sỹ đã ngủ, Thị Kính chăm chú nhìn và phát hiện ra một chiếc râu mọc ngược. Với suy nghĩ rất bình thường, giản dị, Thị Kính đã toan láy dao khâu xén chiếc râu đó đi. Những suy nghĩ và hành động của Thị Kính rất tự nhiên, thể hiện những tình cảm rất nồng nàn và chân thực của người phụ nữ yêu chồng.
3. Cả trong hành động và ngôn ngữ, Sùng bà đều chứng tỏ là một kẻ tàn nhẫn, độc ác, không những thế lại còn coi thường những người lao động, nghèo khổ :
- Về hành động : Sùng bà dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (Một kiểu hạ nhục người khác). Sùng bà không cho Thị Kính được phân bua, thanh minh cho mình, dúi tay, đẩy Thị Kính ngã khịu xuống, nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình.
- Về ngôn ngữ : Sùng bà đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính thậm tệ. Điều quan trọng nhất là cách mắng chửi của Sùng bà đối với Thị Kính không phải là lời mắng của mẹ với con, cũng không phải là của mẹ chồng đối với con dâu của mình. Trong lời mắng chửi, bà luôn nhấn mạnh về sự đối lập giữa hai giai cấp, đến sự không "môn đăng hộ đối" giữa hai gia đình
Lời lẽ hành động của Sùng bà chứng tỏ mụ là người độc ác và tàn nhẫn, không những thế lại còn hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên, dẫn đến coi thường những người khác, nhất là những người lao động. Điều đó cho thấy Sùng bà tức giận, chửi mắng Thị Kính thậm tệ không hẳn vì nghĩ rằng Thị Kính có ý làm hại con mụ mà vì sự chênh lệch đẳng cấp xã hội giữa hai gia đình. Thị Kính là con nhà nghèo mà dám bước vào, hơn thế nữa lại là nàng dâu, trở thành người trong gia đình mụ.
4. Trước nỗi oan khuất, Thị Kính không biết làm gì khác, chỉ một mực kêu oan. Thị Kính đã kêu oan đến năm lần. Bốn lần là hướng đến mẹ chồng và chồng. Cả bốn lần, lời kêu oan của Thị Kính chỉ như đổ dầu vào lửa, bởi Thiện Sĩ chỉ là một kẻ bạc nhược, đớn hèn, còn Sùng bà thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính là con dâu trong nhà. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự thông cảm, nhưng đó lại chỉ là lời của Mãng ông. Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái.
5. Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thỏa, trước khi đuổi , chúng còn bày một màn kịch độc ác làm cho cha con Thị Kính phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nó : "- Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu !"
Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh : "- Đây này ! Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này !". Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dũi ngã Mãng ông rồi bỏ vào trong nhà.
Xung đột kịch đã được đẩy lên cao nhất : Thị Kính không những bị đẩy vào cảnh tan vỡ hạnh phúc vợ chồng, bị mắng chửi, hành hạ mà còn phải chứng kiến cảnh người cha già yếu bị chính bố chồng làm cho nhục nhã, khổ sở.
Hoàn cảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những con người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn xã hội cũ.
6. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt tay. Hình ảnh này cho ta nghĩ đến bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Bị đẩy ra khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hóa bơ vơ giữa cái vô định của cuộc đời
Việc Thị Kính giả trai đi tu càng khẳng định sự bế tác của con người trong xã hội. Bên cạnh đó nó còn thể hiện một quan điểm định mệnh, cho rằng mình khổ là do số kiếp, từ đó tìm về cửa Phật để tu tâm, tu đức. Nó cũng cho ta thấy một điều : Con người thời bấy giờ chưa đủ sức, đủ bản lĩnh để vượt lên hoàn cảnh, trái lại phải cam chịu, coi nỗi khổ của mình như một lẽ đương nhiên. Điều đó làm cho tâm hồn của họ càng trở nên yếu đuối và ngày càng thụ động truwocs hoàn cảng ngặt nghèo.
Diễn biến tiếp theo của vở chèo cho thấy đi tu không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi nỗi đau khổ thực tại. Cải trang làm chú tiểu, Thị Kính lại bị Thị Mầu vu oan cho cái tội làm cho thị mang thai. Thị Kính bị đuổi ra khỏi tam quan, rốt cuộc vẫn không thoát khỏi được kiếp trầm luân khổ ải.
bạn tham khảo trên mạng đi. Mình cho bạn địa chỉ gợi ý mà mình hay dùng để soạn bài nè http://www.soanbai.com/2014/10/soan-bai-quan-am-thi-kinh.html
Chúc bạn học tốt!
Hướng dẫn soạn bài " Đức tính giản dị của Bác Hồ" - Phạm Văn Đồng - Văn lớp 7
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Phạm Văn Đồng (1906-2000) là nhà cách mạng nổi tiếng và nhà văn hoá lớn, quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia cách mạng từ năm 1925, đã giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, từng là Thủ tướng Chính phủ trên 30 năm. Phạm Văn Đồng có nhiều công trình, bài nói và viết sâu sắc về văn hoá, văn nghệ, về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân văn hoá của dân tộc.
2. Tác phẩm
Đoạn văn Đức tính giản dị của Bác Hồ trích từ bài Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại - diễn văn trong Lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1980).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đối tượng và đề tài nghị luận đã được nêu rõ trong đề bài và câu mở đầu của bài văn:
- Đức tính giản dị của Bác Hồ.
- [...] Sự nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn của Hồ Chủ tịch.
Tác giả đã chứng minh đức tính giản dị của Bác trên các phương diện:
- Bữa ăn hằng ngày.
- Nhà ở.
- Việc làm.
- Lời nói, bài viết.
2. Vì đây chỉ là một đoạn trích nên không có đủ các thành phần trong bố cục thông thường của một bài văn nghị luận. Cụ thể:
- Mở bài: Sự nhất quán giữa cuộc đời cách mạng và cuộc sống thanh bạch, giản dị của Bác.
- Thân bài: Tác giả chứng minh sự giản dị của Bác trong sinh hoạt, lối sống, việc làm:
+ Bữa ăn thanh đạm, giản dị.
+ Căn nhà sàn đơn sơ, gần gũi thiên nhiên.
+ Công việc bận rộn nhưng Bác không muốn làm phiền đến người khác.
Bình luận: Đời sống vật chất giản dị, thanh bạch là sự hoà hợp tuyệt vời với đời sống tinh thần sôi nổi, phong phú của Bác.
+ Giản dị trong lời nói, bài viết.
3. Những chứng cứ ở đoạn văn từ "Con người của Bác" đến "Nhất, Định, Thắng, Lợi!" rất giàu sức thuyết phục vì trước hết, tác giả đã đưa ra một hệ thống luận cứ toàn diện, từ bữa ăn, nhà ở đến việc làm, cách nói, cách viết... Các dẫn chứng đều cụ thể, xác thực và rất phong phú. Hơn nữa, những điều tác giả nói ra lại được bảo đảm bằng mối quan hệ gần gũi, lâu dài của mình với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Trong đoạn trích, ngoài các luận điểm, luận cứ để chứng minh, tác giả còn kết hợp với những lời bình luận, giải thích sâu sắc để bạn đọc hiểu rõ thêm vấn đề. Ví dụ: Sau phần chứng minh về đức tính giản dị của Bác trong đời sống sinh hoạt, tác giả viết:
"Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật. Bác Hồ sống đời sống giản dị, thanh bạch như vậy, bởi vì Người sống sôi nổi, phong phú đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ và ác liệt của quân chúng nhân dân. Đời sống vật chất giản dị càng hoà hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Đó là đời sống thực sự văn minh mà Bác Hồ nêu gương sáng trong thế giới ngày nay".
Trong đoạn văn trên, tác giả đã phối hợp nhiều phương pháp, biện pháp khác nhau:
- Lật lại vấn đề: "Nhưng chớ hiểu lầm rằng...".
- Giải thích: "bởi vì Người sống sôi nổi, phong phú...".
- Bình luận: "Đời sống vật chất giản dị càng hoà hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất...".
Cách phối hợp các phương pháp, biện pháp khác nhau như vậy giúp cho tác giả soi sáng vấn đề từ nhiều góc độ, đồng thời cũng khiến cho bài viết tăng thêm sức thuyết phục và hấp dẫn hơn.
5. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật nghị luận của bài văn:
- Luận điểm ngắn gọn, tập trung.
- Luận cứ xác đáng, toàn diện.
- Luận chứng phong phú, cụ thể, xác thực.
Tư tưởng, giá trị của bài văn còn được thể hiện rõ ràng và sâu sắc hơn qua sự kết hợp phương pháp nghị luận chứng minh với các phương pháp, biện pháp khác như giải thích, nêu vấn đề và lật lại vấn đề...
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Bài văn nêu bật đức tính giản dị của Bác thể hiện trên nhiều phương diện: từ sinh hoạt, lối sống, quan hệ với đồng chí, đồng bào, trong lời nói, cách viết...
2. Cách đọc
Văn bản này cũng được viết dưới dạng bài văn nghị luận. Ngoài những yêu cầu chung về cách đọc một văn bản nghị luận, khi đọc cần chú ý nhấn mạnh các chi tiết sinh động (được trình bày bằng thủ pháp liệt kê) trong đời sống hằng ngày của Bác. Ngoài ra, cách lập luận trong đoạn thứ ba ("Nhưng chớ hiểu lầm rằng..." là một hình thức chuyển ý rất quan trọng, giúp tác giả triển khai vấn đề trên một bình diện khác sâu sắc hơn. Cần nhấn mạnh khi đọc đoạn này (có thể bằng cách đọc cao giọng hơn hoặc thay đổi giọng đọc, nhịp đọc).
3. Một số ví dụ về tính giản dị của Bác thể hiện trong thơ văn của Người:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
(Tức cảnh Pác Bó)
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt chè ngon mặc sức say
Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa hạc cũ với xuân này.
(Cảnh rừng Việt Bắc)
4. Giản dị là một đức tính, một phẩm chất cao đẹp mà mỗi chúng ta nên có. Giản dị, với mỗi người, thường thể hiện ở lời nói, ở việc làm, thể hiện trong lối sống, trong quan hệ với người xung quanh. Nó là cách ứng xử cao đẹp, nói lên sự hiểu biết của bản thân mỗi chúng ta.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Phạm Văn Đồng (01/3/1906) ở làng Thi Phổ Nhất, bây giờ thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ông là nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn của Việt Nam.
2. Tác phẩm
Bài này được trích từ bài " Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại", diễn văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 19-5-1970)
II. Trả lời câu hỏi
1. Đối tượng và đề tài nghị luận đã được nêu rõ trong đề bài và câu mở đầu của bài văn. "Đức tính giản dị của Bác Hồ....Sự nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn của Hồ Chủ tịch" . Tác giả đã chứng minh đức tính giản dị của Bác trên phương diện :
- Bữa ăn hàng ngày
- Nhà ở
- Việc làm
- Lời nói, bài viết
2. Vì đây chỉ là một đoạn trích nên không có đủ các thành phần trong bố cục thông thường của một bài văn nghị luận. Cụ thể :
- Mở bài : Sự nhất quán giữa cuộc đời cách mạng và cuộc sống thanh bạch, giản dị của Bác
- Thân bài : Tác giả chứng minh sự giản dị của Bác trong sinh hoạt, lối sống, việc làm
+ Bữa ăn thanh đạm, giản dị
+ Căn nhà đơn sơ, gần gũi thiên nhiên
+ Công việc bận rộn nhưng Bác không muốn làm phiền đến người khác.
Bình luận :Đời sống vật chất giản dị, thanh bạch là sự hòa hợp tuyệt với với đời sống tinh thần sôi nổi, phong phú của Bác
+ Giản dị trong lời nói, bài viết
3. Những chứng cứ ở đoạn văn từ "Con người của Bác" đến "Nhất, Định, Thắng, Lợi !" rất giàu sức thuyết phục vì trước hết, tác giả đã đưa ra một hệ thống luận cứ toàn diện, từ bữa ăn, nhà ở đến việc làm, cách nói, cách viết.... Các dẫn chứng đều cụ t hể, xác thực và rất phong phú. Hơn nữa, những điều tác giả nói ra lại được bảo đảm bằng mối quan hệ gần gũi, lâu dài của mình với Chủ tịch Hồ Chí Minh
4. Trong đoạn trích, ngoài các luận điểm, luận cứ để chứng minh, tác giả còn kết hợp với những lời bình luận, giải thích sâu sắc đẻ bạn đọc hiểu rõ thêm vấn đề.Cách phối hợp các phương pháp, biện pháp khác nhau như vậy giúp cho tác giả soi sáng vấn đề từ nhiều góc độ, đồng thời cũng khiến cho bài viết tăng thêm sức thuyết phục và hấp dẫn hơn.
5. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật nghị luận của bài văn :
- Luận điểm ngắn ngọn, tập trung
- Luận cứ xác đáng, toàn diện
- Luận chứng phong phú, cụ thể, xác thực
Tư tưởng, giá trị của bài văn còn được thể hiện rõ ràng và sâu sắc hơn qua sự kết hợp phương pháp nghị luận chứng minh với các phương pháp, biện pháp khác như giải thích, nêu vấn đề và lật lại vấn đề.
I. Tìm hiểu chung văn bản.
1. Tác giả, tác phẩm:
a. Tác giả: Phạm Văn Đồng (1906-2000) – một cộng sự gần gũi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Là thủ tướng chính phủ trên ba mươi năm.
- Là nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng.
- Các tác phẩm có tư tưởng sâu sắc, tình cảm sôi nổi, lời văn trong sáng.
b. Tác phẩm:Trích từ diễn văn“Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc,lương tâm của thời đại” – đọc trong Lễ kỉ niệm 80 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh (1970).
2. Đọc và chú thích: Sgk.
3. Thể loại: Nghị luận chứng minh.
4. Bố cục: 2 phần.
+ Mở bài (đoạn 1,2): Nêu nhận xét chung về đức tính giản dị của Bác.
+ Thân bài (đoạn 3,4,5): Trình bày những biểu hiện cụ thể về đức tính giản dị của Bác
(Chứng minh sự giản dị của Bác).
II. Phân tích
1. Nhận xét chung về đức tính giản dị của Bác:
- Điều rất quan trọng... là sự nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống vô cùng giản dị và khiêm tốn của Hồ Chủ Tịch.
->Sử dụng quan hệ từ đối lập có tác dụng bổ sung cho nhau.
->Cách lập luận ngắn gọn, sâu sắc.
=>Bác Hồ vừa là bậc vĩ nhân lỗi lạc, phi thường vừa là người bình thường, rất gần gũi thân thương với mọi người.
=>Ngợi ca cuộc đời và phong cách sống cao đẹp của Bác.
2. Chứng minh sự giản dị của Bác:
a. Giản dị trong lối sống:
* Trong sinh hoạt, làm việc:
-Bữa cơm chỉ có vài ba món...
-Cái nhà sàn chỉ vẻn vẹn vài ba phòng...
-Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ việc lớn... đến việc rất nhỏ...
-> Dẫn chứng chọn lọc, tiêu biểu, rất đời thường, gần gũi với mọi người nên dễ hiểu, dễ thuyết phục.
=> Bác là người giản dị trong sinh hoạt cũng như trong công việc.
*Trong quan hệ với mọi người:
- Viết thư cho một đồng chí.
- Nói chuyện với các cháu miền Nam.
- Đi thăm nhà tập thể của công nhân.
-> Liệt kê những dẫn chứng tiêu biểu.
=>Thể hiện sự quan tâm, trân trọng và yêu quí tất cả mọi người.
b. Giản dị trong cách nói và viết:
- Không có gì quí hơn độc lập tự do.
-Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi.
->Đây là những câu nói nổi tiếng của Bác, mọi người dân đều biết.
=>Có sức tập hợp, lôi cuốn, cảm hoá lòng người.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật:
- Có dẫn chứng cụ thể, lí lẽ bình luận sâu sắc, có sức thuyết phục.
- Lập luận theo trình tự hợp lí.
2. Ý nghĩa văn bản:
- Ca ngợi phẩm chất cao đẹp, đức tính giản dị của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Bài học về việc học tập, rèn luyện noi theo tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh
Soạn giúp bài: Số từ và lượng từ( đầy đủ, chi tiết )
Ngử Văn lớp 6
Số từ và lượng từ
I. Số từ
Câu 1: Các từ in đậm bổ sung ý nghĩa cho danh từ đứng sau nó để biểu thị số lượng sự vật, hoặc biểu thị thứ tự.
Số từ | Vị trí | Danh từ được số từ bổ sung | ý nghĩa biểu thị của số từ |
---|---|---|---|
Hai | Đứng trước danh từ | chàng | Biểu thị số lượng sự vật |
Một trăm | Đứng trước danh từ | ván cơm nếp | Biểu thị số lượng sự vật |
Một trăm | Đứng trước danh từ | nếp bánh chưng | Biểu thị số lượng sự vật |
Chín | Đứng trước danh từ | ngà, cựa, hồng mao | Biểu thị số lượng sự vật |
Một | Đứng trước danh từ | đôi | Biểu thị số lượng sự vật |
Sáu | Đứng sau danh từ | Hùng Vương | Biểu thị thứ tự |
Câu 2: Một đôi là các cụm danh từ. Phần trung tâm gồm có đôi là danh từ chỉ đơn vị, một là số từ. Như vậy đôi trong câu (a) không phải số từ.
Câu 3: Lấy ví dụ về cụm danh từ có các từ tá, cặp, chục.
+ Một tá bút chì
+ Một cặp bánh giày
+ Một chục trứng gà
II. Lượng từ
Câu 1: Các cụm danh từ là:
+ các hoàng tử
+ những kẻ thua trận
+ cả mấy vạn tướng lĩnh
- Các từ in đậm trên là lượng từ, chúng giống với số từ ở vị trí cùng đứng trước danh từ, khác với số từ ở ý nghĩa:
+ Số từ chỉ số lượng hoặc thứ tự của sự vật;
+ Lượng từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật.
Câu 2 Đặt các cụm danh từ có các lượng từ trên vào mô hình cụm danh từ:
+ Câu có lượng từ mang ý nghĩa toàn thể như: Tết nguyên đán, tất cả học sinh được nghỉ học một tuần.
+ Câu có lượng từ mang ý nghĩa tập hợp hay phân phối như: Cô giáo chủ nhiệm căn dặn từng học sinh trước khi nghỉ hè.
III. Luyện tập
Câu 1:
+ Số từ chỉ số lượng: một canh, hai canh, ba canh, năm cánh.
+ Số từ chỉ thứ tự: canh bốn, canh năm.
Câu 2: Các từ trăm, ngàn, muôn là số từ chỉ số lượng, có ý nghĩa tượng trưng cho số lượng rất nhiều.
Câu 3:
- Giống nhau về ý nghĩa giữa hai từ này là chỉ sự tách ra từng sự vật, từng cá thể.
- Khác nhau là:
+ Từng mang ý nghĩa lần lượt, có trình tự, hết cái này đến cái khác.
+ Mỗi mang ý nghĩa nhấn mạnh sự tách biệt, không có nghĩa lần lượt theo trình tự.
Phụ trước | Trung tâm | Phụ sau | |||
t2 | t1 | T1 | T2 | s1 | s2 |
các | hoàng tử | ||||
những | kẻ | thua trận | |||
cả | mấy vạn | tướng lĩnh, quân sĩ |
Mk xong rùi, nhưng đang chờ duyệt, bn xem đc ko, nếu đc tk nha, mk sẽ tk lại !