Phát biểu cảm nghĩ về bài tùy bút Mùa xuân của tôi của Vũ Bằng
cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình được thể hiện trong bài tùy bút :"mùa xuân của tôi"
“Mùa xuân của tôi” là phần đầu bài tuỳ bút “tháng giêng mơ về trăng rét ngọt” trong kiệt tác văn chương “Thương nhớ mười hai” của nhà văn Vũ Bằng. Vũ Bằng (1913 – 1984) là nhà văn, nhà báo Hà Nội, đã nổi tiêng trước năm 1945. Ông viết tác phẩm này tại Sài Gòn trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, gửi gắm bao nỗi “sầu biệt li vơi sáng đầy chiều” nhớ vợ con gia đình, nhớ quê hương, nhớ Bắc Việt, nhớ Hà Nội…”. Mỗi tháng ông có một nỗi nhớ, nhớ triền miên, nhớ dằng dặc suốt năm.
Tháng giêng và mùa xuân Hà Nội. Mùa xuân Bắc Việt đối với Vũ Bằng sao nhớ thế. Nỗi nhớ ấy, nỗi buồn đẹp ấy là của khách “thiên lí tương tư”.
“Ai cũng chuộng mùa xuân “ và “mê luyến mùa xuân” nên càng “trìu mến” tháng giêng, tháng đầu của mùa xuân. Tình cảm ấy rất chân tình “không gì lạ hết”. Cách so sánh đối chiếu của Vũ Bằng rất phong tình gợi cảm: “ Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Một cách viết duyên dáng, cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ: “ai bảo được…”, “ai cấm được…ai cấm được.. ai cấm được”. Chữ “thương” được nhắc lại 4 lần, liên kết với chữ “yêu”, chữ “nhớ” đầy ấn tượng và
rung động.
Là một khách tài từ yêu cảnh sắc thiên nhiên “yêu sông xanh núi tím” rất đa tình, yêu nhan sắc giai nhân “đôi mày như trăng mới in ngần” yêu những “mộng ước của mình”. Nhưng Vũ Bằng đã tâm sự là mình “yêu nhất mùa xuân không phải vì thế”. Câu văn như nhún nhảy: “tôi yêu…tôi yêu.. và tôi cũng xây mộng… những yêu nhất…”.Thoáng gợi một câu thơ Kiều Nguyễn Du, một cách viết tài hoa.
Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ và yêu nhất là mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội, nơi có gia đình và vợ con ông, nơi mà ông đã nhiều năm tháng cách biệt. Ông nhớ cái “mưa riêu riêu”, cái “gió lành lạnh” cùa mùa xuân quê huơng. Ông thương nhớ những âm thanh mùa xuân Bắc Việt: “tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng”.. Tình thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng rất thiết tha nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trang trải khắp cảnh sắc và con người, từ xóm thôn đến bầu Trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo, đến câu tình ca thôn nữ.
cảm hứng yêu nước trong những bài tùy bút (1 thứ quà của lúa non,sài gòn tôi yêu,mùa xuân của tôi)giúp mik vs
ĐỀ 2: Phát biểu cảm nghĩ về mùa xuân.
a. Mở bài.
- Giới thiệu khái quát về mùa xuân.
- Cảm nhận chung về mùa xuân.
b. Thân bài.
Trình bày cảm xúc, suy nghĩ của em về mùa xuân:
* Mùa xuân của thiên nhiên.
- Cảnh sắc, thời tiết, khí hậu, cây cối, chim muông...
- Mùa xuân của con người.
+ Mở đầu cho một năm mới: Có mong ước, ý định gì?
+ Mùa xuân đem đến cho con người thêm một tuổi mới.
+ Mùa xuân mang đến tâm hồn con người như thế nào?
+ Mùa xuân đến cho gia đình đoàn tụ, vui vẻ...
c. Kết bài.
- Khẳng định lại tình cảm của em về mùa xuân.
- Nêu cảm nghĩ về mùa xuân.
Giúp mình với mình đang cần gấp
Mỗi mùa đều có những nét đẹp khác nhau. Nhưng có lẽ, em cảm thấy yêu thích nhất là mùa xuân - mùa của tiết trời ấm áp, của sự sống đâm chồi nảy lộc.
Mùa xuân là mùa đầu tiên của một năm. Và mỗi khi xuân về, em lại cảm thấy vô cùng thích thú. Mấy ngày trước, bầu trời còn xám xịt, làn gió lạnh lùa qua bên tai. Vậy mà khi xuân đang về, đất trời dường như lột xác. Xuân đến, ánh mặt trời ấm áp hơn hơn. Bình minh của ngày mới lên tỏa ra nhưng ánh nắng lung lung chiếu rọi xua tan lớp mây đen dày đặc bao ngày qua. Bầu trời xanh trong như được gội rửa sau những ngày âm u của mùa đông. Những áng mây như được ai nhuộm trắng, chúng bồng bềnh trôi êm đềm trên bầu trời. Gió xuân cũng trở nên hiền dịu, gió thổi nhẹ nhàng như hát những khúc ca xuân. Thật dễ chịu biết bao khi được cảm nhận không khí của trời xuân.
Khi xuân đến, những chồi non như tỉnh dậy sau một giấc ngủ đông thật dài. Tất cả đua nhau đâm chồi nảy lộc xanh mơn mởn. Chính những tia nắng ấm áp của mùa xuân chính là vị thần gõ cửa đánh thức mùa xuân. Muôn loài hoa chỉ chờ đợi đến lễ hội xuân để cùng nhau trẩy hội, cùng nhau khoe hương, khoe sắc. Sắc xuân khiến cho lòng người thêm hân hoan, vui tươi.
Xuân về cũng là lúc con người đón chào năm mới. Đây cũng là thời điểm có dịp Tết cổ truyền của vô cùng quan trọng của dân tộc. Đã bao đời nay, Tết trở thành một lễ hội nằm trong niềm mong đợi và không thể thiếu của con người Việt Nam. Mỗi khi Tết đến, mỗi người trong gia đình đều có những công việc riêng. Tuy ai cũng bận rộn, nhưng tất cả đều cảm thấy vui vẻ. Đặc biệt nhất là khi cả nhà cùng gói bánh chưng. Những chiếc lá rong xanh, hạt đỗ vàng, thịt mỡ và gạo trắng thơm. Bố bận rộn dọn dẹp nhà cửa. Mẹ thì đi chợ mua đồ chuẩn bị cho những ngày tết. Anh trai ra chợ hoa mua cây quất, cây đào về trang trí nhà cửa. Em cũng phụ giúp mọi người hoàn thành công việc của mình. Đêm ba mươi, cả nhà em cùng quây quần bên mâm cơm, rồi ngồi xem chương trình văn nghệ. Những ngày đầu năm mới, mọi người mặc quần áo thật đẹp để đi chúc Tết họ hàng. Em cũng chúc Tết ông bà, bố mẹ và nhận được phong bao lì xì đỏ thắm. Không khí hân hoan, vui tươi khiến bao trùm lấy mỗi người.
Mùa xuân - mùa của sự sống, của niềm hạnh phúc và sum vầy. Xuân đến mang bao niềm hy vọng cho mọi người, cho quê hương và đất nước thân yêu của em. Yêu sao mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm.
Cảm nghĩ về mùa xuân trong bài mùa xuân của tôi
Mùa xuân là mùa đoàn tụ là mùa mọi người được đoàn viên với gia đình, là khi con người chúng ta dành cho nhau những tình cảm ấm áp. Từng đàn én bay liệng và hình ảnh những đóa đào đóa mai hiện ra là những dấu hiệu đầu tiên cảu mùa xuân. Những hạt mưa phùn của mùa xuân cũng trở nên khác ngày thương, không qua to không quá bé, nó như để làm dịu đi không khí và tăng thêm cái se se của thời tiết ngày xuân. Những cành lộc non phơi phới trải mình ra đón cái tươi mới, cái tinh tinh túy của trời đất, vươn ra đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân còn là mùa của ngày tết truyền thống, mọi người cùng quây quần bên nhau với nồi bánh chưng, lửa đỏ rực, rồi tí tách cháy. Những mâm ngũ quả cùng với cành đào chúm chím nụ, tạo nên một cái tết đậm chất truyền thống của người Việt. Và với sự tinh tế và tài tình cảu mình Bằng Việt đã sáng tác ra bài Mùa xuân của tôi như một kỉ niệm một khoảnh khắc , những kỉ niệm của tác giả về xuân hà nội.
Được trích từ tùy bút “ tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt “ in trong tập “ thương nhớ mười hai”. Tác phẩm mùa xuân của tôi đươc viết khi tác giả Bằng việt sống trong cảnh chia cắt đất nước, và hơn thế tác giả phải sống trong vùng của Mỹ ngụy xâm chiếm. Trong tình trạng này, tình yêu dành cho quê hương đất nước càng trỗi dậy, cháy bỏng và bằng cách thể hiện tình yêu và tình cảm của mình trong những trang sách qua những câu chữ của mình để bày tỏ sự nhớ mong da diết về những kỉ niệm ngày xuân đất trời hà nội. Với sự tài tình trong sử dụng biện pháp so sánh, khi so sánh tình yêu dành cho mùa xuân hà nội với những tình yêu lớn lao “ai bảo được non đừng thương nước, ong bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió, ai cấm được trai đừng thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Những tình cảm như vô hình ấy lại hiện hữu rất rõ khi ai đó lại đọc được những tâm tư tình cảm ẩn chứa dưới những từ ngữ
Những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt đời thường cùng với những cảnh vật thân quen của mùa xuân được tái hiện rõ ràng trong tác phẩm. Những hình ảnh ấy thật giản dị, đó là hình ảnh những người Hà thành luôn mang trong mình một khí chất, một phong thái thanh lịch , nhẹ nhàng. Hình ảnh mùa xuân “ mưa riêu riêu” hai từ riêu riêu khiến chúng ta xốn xang bao nhiêu. Không chỉ có hình ảnh mưa phùn – một nét đặc trưng của mùa xuân mà còn cả những âm thanh quen thuộc “ tiếng trống chèo” vang vọng lại từ xa và cả những câu hát thấm đượm tình cảm mặn mà mà bao năm gắn bó tác giả có được.
Với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng lại thấm đầy chất văn chất thi ca trong tác phẩm, mùa xuân của tôi gợi lại cho độc giả bao điều mới lạ về một mùa xuân rất riêng mà cũng rất gần gũi thân thương ở Hà nội. Tình yêu quê hương , yêu con người thấm nhuần vào từng câu chữ , với những hình ảnh và từ ngữ tả thực , tác phẩm mùa xuân của tôi dễ dàng đi vào lòng người.
Có lẽ mùa xuân là đề tài gợi nhắc nhiều xúc cảm đối với văn nghệ sĩ. Vũ Bằng là một trong số cây bút viết hay, viết sâu sắc về mùa xuân bằng giọng thơ tinh tế và đầy chất thơ. Với sở trường tùy bút và bút kí ông đã vẽ nên bức tranh mùa xuân đất bắc tuyệt vời qua “Mùa xuân của tôi”.
“Mùa xuân của tôi” là dòng tản mạn ghi chép lại những xúc cảm sâu lắng và ngọt ngào nhất của Vũ Bằng về mùa xuân, về những giao thoa của đất trời khi bước sang một năm mới, một mùa mới ấm áp. Với giọng văn nhẹ nhàng, dìu dặt, tác giả đã kéo người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng tràn sức sống. Bởi rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất, thi vị và duyên dáng nhất trong một năm.
Trải dọc bài thơ chính là tấm chân tình của tác giả dành cho mùa xuân đất bắc. Sự hòa quyện với thiên nhiên, với đất trời, với con người.
Từ những câu văn đầu tiên, tác giả đã vẽ nên đặc trưng của thời tiết và khí xuân miền Bắc với “mưa rêu rêu gió lành lạnh” không nơi nào có được. Chính đặc trưng này làm nền tảng để tác giả có thể vẽ thêm nhiều vẻ đẹp khác nhau nữa. Những thanh âm như tiếng nhạn kêu, câu hát huê tình quyện với sự ấm áp của nhang trầm, của không khí đoàn tụ gia đình khiến tác giả thổn thức nhớ thương. Có lẽ chính những điều ấm áp và bình dị đó khiến tác giả không nguôi khi nhớ về.
Mùa xuân đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên nhưng chính từ lòng người cũng toát lên vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn đó. Tác giả đã viết “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Mùa xuân khiến cho trái tim con người muốn cựa quậy, muốn thổn thức và muốn bùng cháy. Xuân đến “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”. Cái rét của mùa xuân là cái rét ngọt ngào từ không “căm căm” như mùa đông xứ Bắc nữa.
Vũ Bằng ới những cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ và nhiều hình ảnh so sánh mới lạ đã khiến người đọc hồi tưởng về những mùa xuân đã qua, mùa xuân của quê hương, của lòng người mênh mang.
Và xuân đến, tháng giêng chính là biểu tượng tươi đẹp nhất, cũng là nơi hội tụ của những vẻ đẹp ngọt ngào. Như Xuân Diệu từng nói “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong văn Vũ bằng không ngọt ngào, hối hả như Xuân Diệu nhưng lại đằm thắm và da diết nhất khiến cho người đọc lâng lâng, mê đắm. Khi tháng giêng về cũng là lúc đất trời bắt đầu có sự chuyển giao kì diệu và đầy tinh tế. Nét đẹp tháng giêng đất bắc là nét đẹp dịu dàng mà đằm thắm, có sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên đất trời. Và có lẽ lòng người cũng đồng điệu theo những nhịp điệu của mùa xuân.
Thật vậy “mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, tinh khôi và đầy tươi mới nhất khi viết về mùa xuân,. Nó gợi nhắc cho người đọc về những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của mùa xuân tươi đẹp.
Bài văn này trích từ thiên tuỳ bút Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt in trong tập Thương nhớ mười hai. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng kiểm soát của Mĩ – ngụy, xa cách quê hương đất Bắc, Nhà văn đã gửi vào trang sách nỗi niềm thương nhớ quê hương, gia đình tha thiết và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Điều đó thể hiện qua hoài niệm về cảnh sắc thiên nhiên và phong vị cuộc sống hằng ngày của Thủ đô Hà Nội với vẻ đẹp mang đậm bản sắc văn hóa tinh tế của một vùng và cũng là của chung đất nước.
Nói đến tình yêu nồng nàn của mình đối với mùa xuân, tác giả mượn quy luật để khẳng định: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì Lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.Nhà văn nhớ về mùa xuân đất Bắc là nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên và những cảnh sinh hoạt đời thường mang nét đặc trưng nhất. Những hình ảnh đẹp đẽ, khó quên tái hiện rõ ràng trong tâm tưởng nhà văn: Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng…
Giọng văn du dương, trầm bổng, giàu chất thơ của Vũ Bằng đã đưa chúng ta vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Thế giới ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của kẻ tha hương. Nhà văn nhắc đi nhắc lại như lời tỏ tình thiết tha, say đắm: Mùa xuân của tôi… mùa xuân thần thánh của tôi… Điều đó chứng tỏ tình yêu mùa xuân đã thấm sâu vào tâm hồn, vào máu thịt của người con đất Bắc. Để nhấn mạnh sức sống và sự cuốn hút kì lạ của mùa xuân, tác giả đã dùng cách nói cường điệu ; cường điệu mà vẫn rất tự nhiên: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn… Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Không khí ấm áp mùa xuân còn hiện lên trong khung cảnh gia đình ngày Tết với bàn thờ, đèn nến, hương trầm… và tình cảm cha con, vợ chồng, anh em quấn quýt, sum vầy. Viết về những cảnh này, giọng điệu của tác giả vừa sôi nổi nhiệt thành, vừa da diết lắng sâu. Điều đó đã tạo nên âm hưởng trữ tình và sức truyền cảm mạnh mẽ của đoạn văn. Cuối bài văn, tác giả tập trung miêu tả những nét riêng của trời đất, thiên nhiên vào thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng Âm lịch. Khả năng quan sát sắc sảo và cảm nhận tinh tế của tác giả được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu và những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc: … Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác. Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột. Qua bài văn hay và đẹp như một bài thơ trữ tình, người đọc thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kĩ càng mà còn rất yêu mến mùa xuân, yêu mến thiên nhiên; biết trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp kì diệu mà nó mang đến cho con người. Vũ Bằng quả là một cây bút tài hoa của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.Nêu cảm nhận của em về cảnh sắc mùa xuân qua ngòi bút tài hoa và tinh tế của tác giả trong bài viết ‘‘Mùa xuân của tôi”.
Với sự quan sát tinh tế, chắt lọc những hình ảnh đặc sắc, Vũ Bằng đã tái hiện một mùa xuân đặc trưng xứ Bắc. Ở đó có vẻ đẹp của thiên nhiên căng tràn nhựa sống, có niềm vui của con người trong không khí nô nức đón xuân về, đoàn tụ gia đình ấm áp. Đó là những nỗi nhớ niềm thương với những đứa con xa quê trong ngày xuân sang.
cảm nhận của em về đoạn văn sau bằng một văn bản ngắn:'' Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân... mê luyến mùa xuân".(" mùa xuân của tôi" Vũ Bằng
Tham khảo
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích: Mùa xuân của tôi là phần đầu bài tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn văn mở đầu bằng câu: “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân” như là sự khẳng định trực tiếp: Tình yêu mùa xuân của mỗi người là một tình cảm rất tự nhiên. Tình cảm chân thực, tự nhiên và tất yếu ấy được thể hiện qua nghệ thuật liệt kê, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu (dẫn chứng) Cách viết duyên dáng mượt mà làm cho lời văn mềm mại, tha thiết theo dòng cảm xúc, đọc lên ta cứ ngỡ là thơ. Cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ đừng, đừng thương, ai bảo được… ai cấm được... Chữ thương được nhắc tới 4 lần, liên kết với chữ yêu, chữ nhớ đầy ấn tượng và rung động.
TK:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích: Mùa xuân của tôi là phần đầu bài tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn văn mở đầu bằng câu: “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân” như là sự khẳng định trực tiếp: Tình yêu mùa xuân của mỗi người là một tình cảm rất tự nhiên. Tình cảm chân thực, tự nhiên và tất yếu ấy được thể hiện qua nghệ thuật liệt kê, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu (dẫn chứng) Cách viết duyên dáng mượt mà làm cho lời văn mềm mại, tha thiết theo dòng cảm xúc, đọc lên ta cứ ngỡ là thơ. Cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ đừng, đừng thương, ai bảo được… ai cấm được... Chữ thương được nhắc tới 4 lần, liên kết với chữ yêu, chữ nhớ đầy ấn tượng và rung động.
viết 1 đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nết riêng biệt của cảnh sắc mùa xuân đắt bắc và tình cảm của vũ bằng cho mùa xuân đất bắc đó.
Nêu cảm nhận của em về cảnh sắc mùa xuân miền bắc qua ngòi bút tài hoa ,tinh tế của Vũ Bằng
ũ Bằng (1913-1984) là một nhà văn có cuộc đời đặc biệt. Sinh trưởng ở Hà Nội, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông lên chiến khu, ít lâu sau lại về sống ở Hà Nội, vùng địch tạm chiếm, chịu tiếng là "dinh tê". Năm 1954, để lại người vợ xinh đẹp nết na, ông di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn cho đến lúc mất (1984). Vào thời ấy, ông làm sao tránh được dị nghị nặng nề. Mãi sau khi mất, ông mới được chiêu tuyết: Các nhân chứng xác nhận ông là một cơ sở trong tổ chức tình báo cách mạng. Thầm lặng hy sinh cuộc sống riêng tư, danh dự, thậm chí cả mạng sống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc là con đường chung của các nhà tình báo cách mạng, trong đó có Vũ Bằng. Và phải chăng, cho tới tận bây giờ còn có bao điều bí ẩn về ông mà ta không thể nào biết được. Trong các nhà văn hiện đại ViệtNam, liệu còn ai có cuộc đời giống Vũ Bằng không?
Văn của Vũ Bằng cũng thật độc đáo, thật ám ảnh. Hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống con người Hà Nội, miền Bắc trong 12 tháng của một năm, được tái hiện vô cùng sống động với nỗi nhớ thương da diết và tấm lòng trìu mến vô hạn của tác giả qua tập tùy bút "Thương nhớ mười hai". "Mùa xuân của tôi" (sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1) là đoạn mở đầu chương một: "Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt" của thiên tùy bút đó. Chứa chan cảm xúc trữ tình xen yếu tố chính luận và chất suy tưởng, kết cấu tương đối hoàn chỉnh, đây có thể coi là một bài văn mẫu mực cho thể loại tùy bút.
Ba câu văn mở đầu, người đọc đã bị "thôi miên" bởi giọng văn chính luận - trữ tình của tác giả: "Tự nhiên là thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân".
"Chuộng", "trìu mến", "mê luyến", trình tự xuất hiện của ba từ theo cấp độ tăng dần đã nói lên cung bậc tình cảm của con người đối với mùa xuân. Đó là thứ tình cảm "tự nhiên như thế", "không có gì lạ hết". Sau hai câu văn khẳng định là câu văn giả định để khẳng định với những cụm từ hô ứng mà vế đầu được điệp lại tới bốn lần: "Ai bảo được, ai cấm được", "thì mới hết được"... Cùng sự chắc nịch của lý trí tỉnh táo là độ mê say của tình cảm qua những hình ảnh đời sống trong mối tương quan gắn bó: non thương nước, bướm thương hoa, trăng thương gió, trai thương gái, mẹ yêu con, cô gái còn son nhớ chồng. Hơi văn liền mạch, lời văn dồn dập... Tất cả những yếu tố ngôn từ đó đã khẳng định tình cảm của con người đối với mùa xuân là một quy luật tự nhiên, tất yếu.
Một nét xuân xứ Bắc (ảnh chụp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội). Ảnh: Minh Thăng. |
Phần tiếp theo là cảnh sắc, không khí mùa xuân đất trời và lòng người được tái hiện qua những hình ảnh và cảm xúc thương yêu vô hạn của tác giả. Đây là "mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội" trong ký ức của một người xa xứ - thân ở phương Nam mà tâm hồn vẫn tìm về xứ Bắc, nên nó thiêng liêng như chính tác giả gọi tên: "Mùa xuân thần thánh". Chỉ với hai câu văn tả ít, gợi nhiều, nhà văn đã thu hết cả hồn vía của cảnh vật mùa xuân: "Sông xanh, núi tím; mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..." và đặc biệt là hình ảnh "trời đất mang mang" được gợi ra từ cảm nhận tinh tế. Có hình ảnh ngày nay đã không còn nữa, nhưng đa phần thuộc về cảnh của mùa xuân muôn thuở, trong kí ức mà cũng là hiện tại, tương lai... Gần gũi thân thuộc mà sao bây giờ ta mới cảm nhận hết chất thơ mộng, huyền ảo của nó qua lời văn dịu ngọt của ông.
Gợi cảnh đã khó, gợi tình còn khó hơn; bởi cảm xúc thường vụt đến, rồi đi và dễ bị những từ ngữ chung chung làm sáo mòn, đơn điệu. Vũ Bằng đã vượt qua cửa ải của sự tầm thường bằng việc cụ thể hóa cảm xúc của con người trước mùa xuân qua những phép so sánh: "Ngồi yên không chịu được", "đi ra ngoài vào những lúc đất trời mang mang", "tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rưọu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống", "nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh". Và đây là một so sánh rất bạo - so sánh tình người với hành vi của động vật: "Y như những con vật nằm thu mình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời ai cũng muốn yêu thương..."
Mùa xuân thường đến vào dịp Tết. Cái Tết của xứ Bắc có nét khác mọi miền, nó được chuẩn bị kỹ càng hơn, được "bầy biện" cầu kì hơn. Cái tài của nhà văn là ông không hề nhắc đến một chữ "Tết" nào mà ta vẫn hình dung ra cảnh đón Tết trong mỗi gia đình. Không phải mâm cao cỗ đầy, mà là cái không khí bao trùm. Đó là ánh sáng của đèn nến, hương thơm của nhang trầm, bầu không khí đoàn tụ êm đềm trên kính dưới nhường, là tình cảm tín ngưỡng, tâm linh... Tất cả khiến cho lòng người cảm thấy "ấm lạ lùng", "như có không biết bao nhiêu là hoa nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan".
Phần cuối của bài văn, tác giả tập trung miêu tả nét riêng của thiên nhiên và không khí mùa xuân từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch. Ngòi bút đặc biệt tinh tế đã phát hiện và miêu tả sự thay đổi, chuyển biến của màu sắc và không khí đất trời, cây cỏ: "Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác...", "trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn thiên lí, vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột". Màu sắc, hương thơm và ánh sáng của mùa xuân ở trong khoảng thời gian ngắn ngủi ngay sau rằm tháng giêng - giống như thời gian bản lề giữa đầu xuân và cuối xuân - đã cho ta cái cảm giác mùa xuân đang chín. Đoạn văn miêu tả chứa đựng những hình ảnh chọn lọc của không gian trong những thời điểm thời gian cụ thể và thấm đượm tâm tình tác giả. Có lúc, không kìm nổi lòng mình, ông đã thốt lên tiếng gọi mùa xuân như tiếng xuýt xoa khen tặng người thân: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi!".
Những dòng cuối cùng của đoạn văn giống như cánh màn khép lại sau khi tác giả đã cho ta chu du trong tâm hồn cùng cảnh sắc mùa xuân. Cuộc sống êm đềm thường nhật sau khi Tết đã hết, xuân đã tàn qua ngòi bút của ông không phải là không thi vị khiến cho người đọc không cảm thấy hẫng hụt:
"Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm hóa vàng và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật".
Cảnh sống đơn sơ mà thanh cao, êm đềm mà hạnh phúc của người Hà Nội, của xứ Bắc vừa "niêm phong" lại mùa xuân tươi đẹp, vừa mở ra một trạng thái mới của đời sống, như một sự tiếp nối trong vòng tuần hoàn của thời gian.
Văn Vũ Bằng thật sinh động, cuốn hút. Cảnh và tình hòa quyện, khơi gợi. Những câu văn dài, có nhịp điệu và chứa đầy hình ảnh so sánh mới lạ để làm nổi bật lên không khí, cảnh vật và nỗi lòng quen thuộc. Là cảm nhận của riêng ông, nhưng lay động tiềm thức, tư duy, tình cảm của tất cả chúng ta. Không có tình cảm tha thiết nồng nàn với quê hương đất nước, với cuộc sống dân tộc, không có cảm nhận tinh tế, sâu sắc và tài năng ngôn ngữ, không thể nào có được những trang văn về mùa xuân đẹp và xúc động lòng người đến thế! Chao ôi! Người như thế, văn như thế, không đáng để ta ngưỡng mộ lắm sao?
Bằng ngòi bút tài hoa, tinh tế, nhà văn Vũ Bằng đã mang lại cho người đọc một bức tranh thiên nhiên với những cảnh sắc rất đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Ở đó có vẻ đẹp của thiên nhiên tràn đầy sức sống và hương sắc mùa xuân tràn ngập khắp cả không gian đất trời; có niềm vui của con người khi được sống trong bầu không khí đoàn tụ ấm áp của gia đình vào những giờ phút vô cùng ý nghĩa: khép lại một năm cũ và đón chào một năm mới.
ũ Bằng (1913-1984) là một nhà văn có cuộc đời đặc biệt. Sinh trưởng ở Hà Nội, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông lên chiến khu, ít lâu sau lại về sống ở Hà Nội, vùng địch tạm chiếm, chịu tiếng là "dinh tê". Năm 1954, để lại người vợ xinh đẹp nết na, ông di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn cho đến lúc mất (1984). Vào thời ấy, ông làm sao tránh được dị nghị nặng nề. Mãi sau khi mất, ông mới được chiêu tuyết: Các nhân chứng xác nhận ông là một cơ sở trong tổ chức tình báo cách mạng. Thầm lặng hy sinh cuộc sống riêng tư, danh dự, thậm chí cả mạng sống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc là con đường chung của các nhà tình báo cách mạng, trong đó có Vũ Bằng. Và phải chăng, cho tới tận bây giờ còn có bao điều bí ẩn về ông mà ta không thể nào biết được. Trong các nhà văn hiện đại ViệtNam, liệu còn ai có cuộc đời giống Vũ Bằng không?
Văn của Vũ Bằng cũng thật độc đáo, thật ám ảnh. Hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống con người Hà Nội, miền Bắc trong 12 tháng của một năm, được tái hiện vô cùng sống động với nỗi nhớ thương da diết và tấm lòng trìu mến vô hạn của tác giả qua tập tùy bút "Thương nhớ mười hai". "Mùa xuân của tôi" (sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1) là đoạn mở đầu chương một: "Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt" của thiên tùy bút đó. Chứa chan cảm xúc trữ tình xen yếu tố chính luận và chất suy tưởng, kết cấu tương đối hoàn chỉnh, đây có thể coi là một bài văn mẫu mực cho thể loại tùy bút.
Ba câu văn mở đầu, người đọc đã bị "thôi miên" bởi giọng văn chính luận - trữ tình của tác giả: "Tự nhiên là thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân".
"Chuộng", "trìu mến", "mê luyến", trình tự xuất hiện của ba từ theo cấp độ tăng dần đã nói lên cung bậc tình cảm của con người đối với mùa xuân. Đó là thứ tình cảm "tự nhiên như thế", "không có gì lạ hết". Sau hai câu văn khẳng định là câu văn giả định để khẳng định với những cụm từ hô ứng mà vế đầu được điệp lại tới bốn lần: "Ai bảo được, ai cấm được", "thì mới hết được"... Cùng sự chắc nịch của lý trí tỉnh táo là độ mê say của tình cảm qua những hình ảnh đời sống trong mối tương quan gắn bó: non thương nước, bướm thương hoa, trăng thương gió, trai thương gái, mẹ yêu con, cô gái còn son nhớ chồng. Hơi văn liền mạch, lời văn dồn dập... Tất cả những yếu tố ngôn từ đó đã khẳng định tình cảm của con người đối với mùa xuân là một quy luật tự nhiên, tất yếu.
Một nét xuân xứ Bắc (ảnh chụp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội). Ảnh: Minh Thăng. |
Phần tiếp theo là cảnh sắc, không khí mùa xuân đất trời và lòng người được tái hiện qua những hình ảnh và cảm xúc thương yêu vô hạn của tác giả. Đây là "mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội" trong ký ức của một người xa xứ - thân ở phương Nam mà tâm hồn vẫn tìm về xứ Bắc, nên nó thiêng liêng như chính tác giả gọi tên: "Mùa xuân thần thánh". Chỉ với hai câu văn tả ít, gợi nhiều, nhà văn đã thu hết cả hồn vía của cảnh vật mùa xuân: "Sông xanh, núi tím; mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..." và đặc biệt là hình ảnh "trời đất mang mang" được gợi ra từ cảm nhận tinh tế. Có hình ảnh ngày nay đã không còn nữa, nhưng đa phần thuộc về cảnh của mùa xuân muôn thuở, trong kí ức mà cũng là hiện tại, tương lai... Gần gũi thân thuộc mà sao bây giờ ta mới cảm nhận hết chất thơ mộng, huyền ảo của nó qua lời văn dịu ngọt của ông.
Gợi cảnh đã khó, gợi tình còn khó hơn; bởi cảm xúc thường vụt đến, rồi đi và dễ bị những từ ngữ chung chung làm sáo mòn, đơn điệu. Vũ Bằng đã vượt qua cửa ải của sự tầm thường bằng việc cụ thể hóa cảm xúc của con người trước mùa xuân qua những phép so sánh: "Ngồi yên không chịu được", "đi ra ngoài vào những lúc đất trời mang mang", "tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rưọu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống", "nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh". Và đây là một so sánh rất bạo - so sánh tình người với hành vi của động vật: "Y như những con vật nằm thu mình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời ai cũng muốn yêu thương..."
Mùa xuân thường đến vào dịp Tết. Cái Tết của xứ Bắc có nét khác mọi miền, nó được chuẩn bị kỹ càng hơn, được "bầy biện" cầu kì hơn. Cái tài của nhà văn là ông không hề nhắc đến một chữ "Tết" nào mà ta vẫn hình dung ra cảnh đón Tết trong mỗi gia đình. Không phải mâm cao cỗ đầy, mà là cái không khí bao trùm. Đó là ánh sáng của đèn nến, hương thơm của nhang trầm, bầu không khí đoàn tụ êm đềm trên kính dưới nhường, là tình cảm tín ngưỡng, tâm linh... Tất cả khiến cho lòng người cảm thấy "ấm lạ lùng", "như có không biết bao nhiêu là hoa nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan".
Phần cuối của bài văn, tác giả tập trung miêu tả nét riêng của thiên nhiên và không khí mùa xuân từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch. Ngòi bút đặc biệt tinh tế đã phát hiện và miêu tả sự thay đổi, chuyển biến của màu sắc và không khí đất trời, cây cỏ: "Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác...", "trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn thiên lí, vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột". Màu sắc, hương thơm và ánh sáng của mùa xuân ở trong khoảng thời gian ngắn ngủi ngay sau rằm tháng giêng - giống như thời gian bản lề giữa đầu xuân và cuối xuân - đã cho ta cái cảm giác mùa xuân đang chín. Đoạn văn miêu tả chứa đựng những hình ảnh chọn lọc của không gian trong những thời điểm thời gian cụ thể và thấm đượm tâm tình tác giả. Có lúc, không kìm nổi lòng mình, ông đã thốt lên tiếng gọi mùa xuân như tiếng xuýt xoa khen tặng người thân: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi!".
Những dòng cuối cùng của đoạn văn giống như cánh màn khép lại sau khi tác giả đã cho ta chu du trong tâm hồn cùng cảnh sắc mùa xuân. Cuộc sống êm đềm thường nhật sau khi Tết đã hết, xuân đã tàn qua ngòi bút của ông không phải là không thi vị khiến cho người đọc không cảm thấy hẫng hụt:
"Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm hóa vàng và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật".
Cảnh sống đơn sơ mà thanh cao, êm đềm mà hạnh phúc của người Hà Nội, của xứ Bắc vừa "niêm phong" lại mùa xuân tươi đẹp, vừa mở ra một trạng thái mới của đời sống, như một sự tiếp nối trong vòng tuần hoàn của thời gian.
Văn Vũ Bằng thật sinh động, cuốn hút. Cảnh và tình hòa quyện, khơi gợi. Những câu văn dài, có nhịp điệu và chứa đầy hình ảnh so sánh mới lạ để làm nổi bật lên không khí, cảnh vật và nỗi lòng quen thuộc. Là cảm nhận của riêng ông, nhưng lay động tiềm thức, tư duy, tình cảm của tất cả chúng ta. Không có tình cảm tha thiết nồng nàn với quê hương đất nước, với cuộc sống dân tộc, không có cảm nhận tinh tế, sâu sắc và tài năng ngôn ngữ, không thể nào có được những trang văn về mùa xuân đẹp và xúc động lòng người đến thế! Chao ôi! Người như thế, văn như thế, không đáng để ta ngưỡng mộ lắm sao?
Câu 1: Hoàn cảnh và tâm trạng của Vũ Bằng khi viết văn bản Mùa xuân của tôi có gì đặc biệt? Điều đó có ảnh hưởng gì đến giọng điệu và cảm xúc của bài văn?
Câu 2: Đánh dấu vào nhũng nhận xét đúng về nội dung và nghệ thuật của văn bản “Mùa xuân cùa tôi”:
Văn bản có sự kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Văn bản đã tái hiện được không khí và cảnh sắc thiên nhiên của mùa xuân ờ Hà Nội và miền Bắc một cách sinh động.
Văn bản đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc của tác giả đối với các lễ hội dân gian trong mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc.
Sự quan sát và cảm nhận tinh tế; hình ảnh, chi tiết đặc sắc.
Văn bản đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước sâu sắc, lòng yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng thống nhất đất nước của nhà văn.
Lựa chọn được điểm nhìn đặc sắc, có tác dụng lớn trong việc miêu tả cảnh.
Giọng điệu vừa sôi nổi, vừa tha thiết tạo nén sức truyền cảm manh mẽ.
Lời văn giàu hình ảnh, nhịp điệu và giàu sức biểu cảm.
Sử dụng nhiều phép nghệ thuật độc đáo như phép so sánh, liệt kê, điệp ngữ…
Sử dụng bút pháp khoa trương độc đáo để miêu tả cảnh thiên nhiền.
Câu 3: Nêu cảm nhận của em về chất thơ của đoạn văn sau.
“Tôi yêu sông xanh núi tím, yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân có mưa riều riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kẽu ưong đêm xanh, có tiếng ữống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng”.
Câu 4: Mùa xuân đã khơi dậy sức sông và làm hồi sinh tâm hồn tác già. Điều đó được thể hiện qua một loạt những biện pháp so sánh. Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của chúng (trong đoạn từ “Người yêu cảnh” đến “mở hội liên hoan”).
Câu 5: Hãy tìm các từ láy trong đoạn văn sau và nêu tác dụng của chúng :
“Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ỏ trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”.
Câu 1 chị làm ở trước rồi nhé
Câu 2: Đánh dấu vào nhũng nhận xét đúng về nội dung và nghệ thuật của văn bản “Mùa xuân cùa tôi”:
Văn bản có sự kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Văn bản đã tái hiện được không khí và cảnh sắc thiên nhiên của mùa xuân ờ Hà Nội và miền Bắc một cách sinh động.
Văn bản đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc của tác giả đối với các lễ hội dân gian trong mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc.
Sự quan sát và cảm nhận tinh tế; hình ảnh, chi tiết đặc sắc.
Văn bản đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước sâu sắc, lòng yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng thống nhất đất nước của nhà văn.
Lựa chọn được điểm nhìn đặc sắc, có tác dụng lớn trong việc miêu tả cảnh.
Giọng điệu vừa sôi nổi, vừa tha thiết tạo nén sức truyền cảm manh mẽ.
Lời văn giàu hình ảnh, nhịp điệu và giàu sức biểu cảm.
Sử dụng nhiều phép nghệ thuật độc đáo như phép so sánh, liệt kê, điệp ngữ…
Sử dụng bút pháp khoa trương độc đáo để miêu tả cảnh thiên nhiền.
câu nào đúng chị in đậm rồi nhé
Câu 5: Hãy tìm các từ láy trong đoạn văn sau và nêu tác dụng của chúng :
“Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ỏ trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”.
Tham khảo:
- Những từ láy được sử dụng để diễn tả cảm xúc vui sướng, thư thái trong tâm hồn tác giả trong tiết xuân sau rằm tháng giêng, và để miêu tả sự thay đổi cảnh vật.
- Hai từ láy thể hiện sáng tạo độc đáo của Vũ Bằng là “trong trong” và “hồng hồng”. Đây là hai từ láy mang sắc thái giảm nhẹ, gợi nên vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi, tươi tắn của nền trời xuân. Có cảm giác, bàn tay người nghệ sĩ vẽ cảnh thật gượng nhẹ, nâng niu như sợ vẻ đẹp bầu trời ấy tan biến mất.
- Những từ láy này còn góp phần tạo nên tính nhạc cho câu văn. Những câu văn luyến láy, ngân nga như vần thơ.
ai giup mình với
MAI MIK NỘP BÀI RỒI !!!!!!!!!!!!