Hướng dẫn soạn bài Thuốc

Sách Giáo Khoa
Hướng dẫn giải Thảo luận (3)

Ý nghĩa hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:

“Chiếc bánh bao tẩm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”: Hình ảnh này gợi về căn bệnh u mê, lạc hậu của quần chúng và bi kịch của những chiến sĩ cách mạng tiên phong.

– Đây là phương thuốc chạy chữa căn bệnh mù quáng, mê muội, lạc hậu của quần chúng nhân dân cũng như sự sai lầm trong đường lối hoạt động của cách mạng Trung Quốc.

Sách Giáo Khoa
Hướng dẫn giải Thảo luận (3)

Thuốc là một truyện ngắn nhưng hàm chứa một nội dung lớn lao và sâu sắc. Nói như nhà văn Nguyễn Tuân là có kích thước của truyện dài. Nó khơi dậy nỗi ưu quốc ưu dân. Nó đánh trúng căn bệnh trầm kha của dân tộc Trung Quốc. Có thể coi đây là một bức tranh thu nhỏ về xã hội Trung Quốc tối tăm đầu thế kỉ XX với các đường nét sẫm màu về hai cái chết (của thằng bé chết bệnh và của người cách mạng bị xử chém), về hai bà mẹ đau khổ, về chiếc bánh bao tẩm máu, về nghĩa địa mồ mả dày khít được phán ranh giới bởi một con đường mòn. Nhân vật chính của truyện là đám đông quần chúng mê muội, người cách mạng Hạ Du chỉ ở tuyến sau và được giới thiệu qua đối thoại giữa đám đông quần chúng.

Truyện ngắn Thuốc được viết vào năm 1919, đúng vào lúc cuộc Vận động Ngũ tứ bùng nổ, sau Cách mạng Tân Hợi 1911, cuộc cách mạng mà Lỗ Tấn hiểu rõ những hạn chế của nó. Trên thực tế, cuộc cách mạng này có thành tích là đánh đổ chế độ phong kiến, nhưng cũng có nhiều nhược điểm. Đó là sự xa rời quần chúng khiến cho quần chúng không được tuyên truyền giác ngộ. Mặt khác lại nửa vời, thay thang không đổi

thuốc, cội rễ của chếđộ phong kiến không bị đánh bật, đời sống xã hội không có gì thay đổi. Những điều này Lỗ Tấn đã miêu tả một cách sinh động và hình tượng trong AQ chính truyện. Trong Thuốc, qua nhân vật Hạ Du, Lỗ Tấn bày tỏ sự kính trọng và lòng thương cảm sâu sắc đối với những chiến sĩ tiên phong của Cách mạng Tân Hợi.

Trước tiên, đó là bạn bè đồng hương Thiệu Hưng cùng ôm mộng "cải tạo nhân sinh", cùng Đông du sang Nhật để học hỏi công cuộc Duy Tân, rồi gia nhập tổ chức cách mạng Đồng Minh Hội của Tôn Trung Sơn, rồi về nước tuyên truyền cách mạng và bị khủng bố, bị tàn sát như Từ Tích Lân, Thu Cận, đặc biệt là Thu Cận. Chính Lỗ Tấn cho biết là ông viết về Hạ Du là đề nhớ về Thu Cận (Hạ đối với Thu, Du và Cận đều thuộc bộ ngọc, là hai loại ngọc). Trong không khí khủng bốcách mạng Tân Hợi, đây là cách né tránh kiểm duyệt. Thu Cận là nhà nữ cách mạng tiên phong thời cận đại, từng du học ở Nhật, tham gia cách mạng rồi bị trục xuất về nước, lập tờ Trung Quốc nữ báo đầu tiên tuyên truyền bình đẳng nam nữ, chống phong kiến quân phiệt. Bà tham gia chuẩn bị khởi nghĩa với Từ Tích Lân rồi bị bắt và bị hành hình lúc ba mươi hai tuổi (1875 — 1907). Nơi bà bị hành hình là Cô Hiên Đình Khẩu trong thành Thiệu Hưng mà Lỗ Tấn cho là thấp thoáng ẩn hiện trong tác phẩm.

Là nhà văn đã để lại hai phần ba tác phẩm nói về số phận người phụ nữ Trung Quốc, là nhà văn quan tâm sâu sắc đến sự vươn mình của phụ nữ, Lỗ Tấn đã không chỉ một lần nhắc đến Thu Cận. Số phận bi thảm của nhà nữ cách mạng trẻ tuổi này đã khắc sâu trong tâm khảm nhà văn. Nhưng Thu Cận cũng đồng thời là biểu tượng của cả một lớp thanh niên giác ngộ sớm thời bấy giờ. Trong truyện Câu chuyện về cái đầu tóc, Lỗ Tấn đã truy điệu cả một lớp dũng sĩ "bôn ba trong vắng lặng" như vậy. Ông viết: Có những thanh niên bôn ba vất vả mấy năm ròng, nhưng những viên đạn vô tình đã kết liễu đời họ; có những thanh niên ám sát quan lại, nhưng bắn không trúng, phải chịu một tháng khổ sai ở trong tù; một số thanh niên khác thì đang ôm ấp chí hướng cao xa, nhưng rồi bỗng nhiên mất tích, đến xác của họ cũng không biết ở đâu."

Truy điệu Hạ Du cũng là truy điệu Thu Cận và cả một lớp người cách mạng giác ngộ sớm, cô đơn và bị những người đang ngủ mê gọi là điên. Hạ Du nằm trong hệ thống các nhân vật giác ngộ sớm "đi trước buổi bình minh" mà quần chúng ngủ mê gọi là điên như người điên trong Nhật kí người điên, người điên trong Đèn không tắt. Hạ Du dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn, nhưng lại rất có đơn, không ai hiểu việc anh làm, đến nỗi mẹ anh cũng gào khóc kêu anh chết oan. Quần chúng mua máu anh làm thuốc chữa bệnh cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng muốn thực hiện lí tưởng trời đất nhà Thanh là của chúng ta của Hạ Du thì phải làm gì? Nói cách khác, lúc này cách mạng giải phóng dân tộc phải là một cuộc cách mạng như thếnào thì Lỗ Tấn cũng chưa rõ. Ông đang hướng về cách mạng vô sản. Bài tập văn Thánh võ (vua sáng nghiệp) được ông viết năm 1918, trong đó ông nhiệt liệt ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga như là "bình minh của kỉ nguyên mới", ca ngợi nhữngdũng sĩ cách mạng "lấy máu đào dập tắt ngọn lửa, lấy xương thịt làm cùn gươm giáo" là một minh chứng. Trong truyện Thuốc, ông để cho hai bà mẹ có con chết chém và chết bệnh bước qua con đường mòn cố hữu đến gập nhau và cùng sững sờ trước vòng hoa trên mộ người cách mạng. Nhà văn vẫn vững tin vào tiền đồ cách mạng. Ông nói với mọi người rằng máu người tử tù đã thức tỉnh một bộ phận quần chúng; đã có người hiểu được cái chết vinh quang của họ và nguyện bước tiếp bước chân khai phá của họ.

"Nhưng truyện không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà chỉ đặt ở tuyến ngầm phía sau. Điều này có dụng ý sâu sắc: khi quần chúng chưa giác ngộ thì máu của người cách mạng đổ ra thật vô nghĩa, không được ai chú ý. Truyện đặt sốđông quần chúng chưa giác ngộ vào vị trí chủ yếu để chỉ rõ rằng, mục đích của tác phẩm vẫn là vạch trần sự đầu độc của tư tưởng phong kiến, nhằm thức tỉnh quần chúng đang mê muội." (Lâm Chí Hạo — Truyện Lỗ Tân)

Thuốc vừa là tiếng Gào thét để "trợ uy cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu", vừa là sự bộc bạch tâm huyết của một ngòi bút lạc quan tin tưởng: "Riêng về phần tôi, tôi vẫn cho rằng hiện nay, tôi không còn phải là người có điều gì bức xúc, không nói ra không được, nhưng hoặc giả bởi vì chưa thể quên hết những nỗi quạnh hiu, đau khổ của mình ngày trước, nên có lúc không thể không gào thét lên mấy tiếng đế an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở nơi tuyên đầu được vững tâm hơn…" (Lỗ Tấn,Tựa Gào thét, 1922). "Những kẻ dũng sĩ" đây là hình tượng của Hạ Du chăng?

Sách Giáo Khoa
Hướng dẫn giải Thảo luận (3)

a. Không gian, thời gian nghệ thuật trong truyện:

Câu chuyện xảy ra trong hai buổi sớm vào hai mùa: mùa xuân có ý nghĩa không gian tượng trưng. Buổi sáng đầu tiên có ba cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao châm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà… Ba cảnh gần

như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi tụ tập của nhiều loại người, do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào dịp tết thanh minh – Mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm.

b. Ý nghĩa của vòng hoa trên mộ Hạ Du: có thể xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới – Chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.

Nhờ chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được hiện trọn vẹn, nhờ đó mà không khí của truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc là không phải tư tưởng bi quan.


Sách Giáo Khoa
Sách Giáo Khoa
Hướng dẫn giải Thảo luận (1)

Nếu người dân lúc đó đã giác ngộ thì chắc chắn đã không có hình ảnh con đường mòn phân chia ranh giới hai khu mộ và không có câu hỏi của bà mẹ người tử tù "Thế này là thế nào?" khi thấy vòng hoa trắng trên mộ Hạ Du. Câu hỏi đó thể hiện sự ngạc nhiên nhưng không giấu được cảm xúc mừng thầm của người mẹ. Hiện tượng đó cho thấy đã có biểu hiện của sự giác ngộ trong số những người dân địa phương, và hứa hẹn sự giác ngộ cho mọi người trong một ngày không xa.

Nguyễn Tuân, khi đọc Thuốc đã có nhận xét: "Cái câu hỏi Thế này là thế nào?” trong đoạn cuối truyện được láy đi láy lại như một điệp khúc. Nó cũng tác động đến cảm nghĩ của người đọc y như điệp khúc kể khổ trong truyện cầu phúc … Trong Cầu phúc cũng là một bà mẹ đau khổ, bâng khuâng tự trách.

Trong Thuốc lại một bà mẹ đau khổ khác, cũng vấn vương mà tự hỏi "Thế này là thế nào?". Người đọc yên sao được trước những câu hỏi như thế.. Hình như nhân vật trong truyện hỏi thẳng vào chính mình. Và nhà văn đã liên tưởng tới bài thơ Mộ anh hoa nở của Thanh Hải, bài thơ nói về sự gắn bó keo sơn giữa quần chúng và cách mạng trong những năm tháng khủng bố dưới chính quyền Ngô Đình Diệm.