Hình ảnh"hoa đào" và "ông đồ" cũng được nhắc đến trong một khổ thơ khác của bài. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép T-P-H. Trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán (gạch chân và chú thích rõ)
Hình ảnh"hoa đào" và "ông đồ" cũng được nhắc đến trong một khổ thơ khác của bài. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép. Trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán (gạch chân và chú thích rõ)
Hình ảnh"hoa đào" và "ông đồ" cũng được nhắc đến trong một khổ thơ khác của bài. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép. Trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán (gạch chân và chú thích rõ)
Hình ảnh"hoa đào" và "ông đồ" cũng được nhắc đến trong một khổ thơ khác của bài. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép T-P-H. Trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán
Hình ảnh"hoa đào" và "ông đồ" cũng được nhắc đến trong một khổ thơ khác của bài.Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận tổng phân hợp nêu cảm nhận của em về khổ thơ em vừa chép. Trong đoạn văn có sử dụng câu cảm thán(gạch chân rõ)
Dựa vào hai khổ thơ em vừa chép, viết một đoạn văn theo cách quy nạp (khoảng 12 đến 15 câu), trình bày cảm nhận của em về hình ảnh ông đồ thời tàn. Trong đoạn văn có sử dụng một câu phủ định và một câu cảm thán. (gạch chân và chú thích).Giúp mình với(Khổ 3+4)
Viết 1 đoạn văn 12 câu theo cách quy nạp, nêu cảm nhận của em về khổ thơ thư 3,4 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Trong đoạn văn có sử dụng 1 câu bị động, và 1 câu cảm thán. Gạch chân và chú thích rõ
Tham khảo
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “mỗi năm mỗi vắng”. Thật! Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Bài thơ Ông đồ như muốn nhắc nhở chúng ta đừng nên lãng quên quá khứ, hãy biết trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc, ân hận.
Viết đoạn văn tổng-phân -hợp khoảng 12 câu làm rõ tình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng khách trong khổ thơ thứ ba. Trong đoạn có sử dụng một câu phủ định và một câu cảm thán (gạch chân và chú thích rõ).
Ngắm trắng
Viết một đoạn văn khoảng 10 câu theo cách lập luận T-P-H, em hãy nêu cảm nhận về hình ảnh nhân vật trữ tình ở bài thơ trên. Trong đoạn văn có sử dụng một câu cảm thán. (gạch chân và chú thích rõ)
Hãy viết 1 đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu phân tích khổ thơ 1 và 2 trong bài ông đồ để làm rõ hình ảnh ông đồ thời huy hoàng có sử dụng câu ghép và tình thái từ ( gạch chân và chú thích rõ )
Thơ là tác phẩm điêu khắc tỉ mỉ của một người nghệ sĩ thực thụ. Nó thể hiện nên những nỗi lòng, cảm xúc của nhà thơ đến độ rõ ràng sâu sắc nhất. Và "Ông đồ" của VĐL là một trong những bài thơ nhơ như vậy.
Không bao giờ, ta có thể quên khổ thơ đầu bài:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
2 câu thơ đầu tiên đã thể hiện một vòng lặp rằng năm nào xuân đên cũng thấy ông đồ bày mực tàu, giấy đỏ để mà chuẩn bị thảo chữ qua từ "lặp". Đồng thời ta lại thấy sự dùng từ tài tình của nhà thơ, khi ông không viết "mỗi năm xuân về đến" mà là "mỗi năm hoa đào nở". Cho người đọc thấy luôn được thời gian và cảnh cảnh vật, giá trị gợi hình gợi cảm được nâng lên. Ông đồ vẫn luôn làm công việc của mình như thế, một công việc gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc. Dù với tuổi già của mình, đáng ra ông có thể vui chơi, hưởng thụ nhưng người lại yêu truyền thống dân tộc của mình đến độ luôn làm người thuê viết. Từ đó, ta thấy được một hình ảnh mở đầu cho nội dung mà tác giả viết tiếp ở khổ hai:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Lúc này đây, ông buôn may bán đắt được rất nhiều người thuê. Từ "bao nhiêu" thể hiện cho ta thấy sự đông đúc của những người thuê viết, từ đó gợi ra được hoạt cảnh diễn ra xung quanh ông đồ. Rồi người ta tấm tắc, người ta khen tài ông viết chữ quá dẹp đến độ "hoa tay thảo những nét", ông thảo lên những nét mực của mình và "như phượng múa rộng bay". Biện pháp tu từ so sánh lại càng miêu tả rõ cái đẹp của con chữ mà ông đồ viết ra. Đến đây, ta thấy rõ hơn một hình ảnh ông đồ thời huy hoàng mới đẹp đẽ, người người mới vui vẻ làm sao. Phải chăng hình ảnh ông đồ chính là sự ẩn dụ đến việc mọi người yêu mến truyền thống dân tộc ta vô cùng?. Có lẽ là vậy.
Khép lại, hình ảnh ông đồ thời huy hoàng của mình vừa thể hiện cái đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc ta vừa miêu tả rõ công việc, nét chữ đẹp của ông đồ.