tại sao con người là loài tiến hóa nhất trong giới động vật
Trình bày vai trò của lớp thú? Tại sao con người là loài tiến hóa nhất trong giới động vật
Lợi ích của lớp thú:
- Thú cung cấp thực phẩm, thịt, sữa,...
ví dụ: thịt heo, bò, dê , cừu...
- Cung cấp dược liệu,
ví dụ: mật gấu, nhung nai, xương hổ cốt, sừng tê giác ....
- Cung cấp nguyên liệu thủ công mĩ nghệ da
ví dụ: lông cừu, da hổ, sừng hươu,...
- Cung cấp sức kéo, phân bón, tiêu diệt gặm nhấm giúp ích cho nông nghiệp ví dụ :trâu ,bò, mèo rừng.
- Thú nuôi để nghiên cứu khoa học như Thỏ , chuột bạch , khỉ .
- Thú nuôi làm cảnh, khu du lịch,làm xiếc như chó,mèo ,khỉ voi .
“Con người là một loài động vật cấp cao”, tuy nhiên, điều gì đã khiến cho loài người khác biệt với những loài động vật nói chung và loài khỉ nói riêng? 12 học thuyết đã được đưa ra nhưng như vậy có vẻ vẫn không đúng và đủ. 8 phát kiến khoa học chứng minh thuyết tiến hóa là chuẩn xácQuá trình tiến hóa của loài người qua bộ phim hoạt hình vô cùng đáng yêuXe đạp đã "tiến hóa" như thế nào?Con người hiện đại khác với loài vật ở nhiều đặc điểm, chúng hình thành trong quá trình tiến hóa hàng triệu năm theo các học thuyết khác nhau. Tuy vậy, vẫn từng có những học thuyết, giả thuyết sai lầm và sau này đã bị loại bỏ.
1. Biết chế tạo công cụ
Nhà nhân chủng học Kenneth Oakley từng khẳng định trong một bài báo năm 1944 “ chính việc chế tạo công cụ giúp loài người tiến hoá”. Ông giải thích rằng, loài khỉ đã biết sử dụng những đồ vật sẵn có như gậy và đá để làm công cụ, đó được coi là hành động mang tính chất con người đầu tiên. Vào đầu thập niên 1960, Louis Leakey tìm thấy dấu vết của Homo habillis(người khéo léo) có niên đại 2,8 triệu năm tại Đông Phi. Tuy nhiên, Jane Goodall và một số nhà nghiên cứu khác chỉ ra rằng, tinh tinh cũng biết sử dụng gậy vào một số mục đích như tước lá hoặc bắt cá.
Các nhà khảo cổ học đang thu thập những công cụ bằng đá được xem là của loài người cổ đại.
2.Là “kẻ huỷ diệt”
Nhà nhân chủng học Raymond Dart cho hay, tổ tiên chúng ta thời bấy giờ được coi là “kẻ huỷ diệt” – một loài động vật ăn thịt sử dụng sức mạnh của mình để bắt các con khác, đánh chết rồi xé xác thành từng mảnh với vẻ mặt háu đói thoả mãn cơn khát máu tươi. Chi tiết này có lẽ chỉ xuất hiện trong các cuốn tiểu thuyết viễn tưởng, tuy nhiên sau thế chiến thứ 2 đầy thảm khốc, học thuyết của Dart về “kẻ huỷ diệt” đã được mọi người đồng tình.
3. Biết san sẻ thức ăn
Vào đầu thập niên 1960, loài khỉ “huỷ diệt” được thay thế bởi loài khỉ “thân thiện” (hippie ape). Nhà nhân chủng học Glynn Isaac đã khai quật được bằng chứng xác động vật được kéo đến một nơi để chia cho cả cộng đồng. Ông cho rằng việc chia sẻ thức ăn dẫn đến nhu cầu truyền thông tin về địa điểm thức ăn có thể tìm hấy, và vì vậy, ngôn ngữ - một hành vi xã hội mang tính đặc trưng của con người ra đời.
4. Loài người có thể bơi “khoả thân”
Elaine Morgan, một nhà phóng sự tài liệu cho rằng loài người tiến hoá từ loài linh trưởng trong môi trường nước và môi trường gần nước. Rụng lông giúp bơi nhanh hơn cũng như đứng thẳng khi lội nước. Giả thuyết về “thuỷ linh trưởng” từng bị cộng đồng khoa học bãi bỏ cho đến năm 2013, David Attenborough đã chứng minh được điều đó.
5. Biết ném đá để bắt con mồi
Tổ tiên chúng ta bắt đầu tiến hoá thành người khi khả năng ném đá với vận tốc cao, nhà khảo cổ học Reid Ferring đã khẳng định như vậy. Ông đã tìm ra chứng cứ tại Georgia về Homo erectus (người đứng thẳng,chủng người cổ nhất có hình dáng cơ thể giống loài người hiện nay), xuất hiện cách đây 1,8 triệu năm biết sử dụng đá để bắt sống con mồi.
Trước khi biết cách làm ra vũ khí, ném đá là một trong những cách săn bắn mà người cổ sử dụng.
6.Săn bắt
Việc săn bắt tạo cơ hội cho việc hợp tác. Nhà nhân chủng học Sherwood Washburn và C. S. Lancaster khẳng định trong một bài báo xuất bản năm 1968 : về khía cạnh trí tuệ, sở thích, cảm xúc và đời sống xã hội đơn thuần – tất cả đều là sản phẩm tiến hoá từ quá trình thích ứng với việc săn bắt. Ví dụ như, bộ não phát triển hơn nhằm đáp ứng nhu cầu lưu trữ nhiều thông tin hơn, đồng thời dẫn đến sự phân chia lao động giữa các giới, đòi hỏi phụ nữ cũng phải đi tìm kiếm thức ăn. Điều này giúp trả lời cho câu hỏi : tại sao bộ não của phụ nữ có thể phát triển lớn như vậy?
7. Đổi thức ăn để quan hệ
Cụ thể hơn là quan hệ tình dục một vợ một chồng. Theo một học thuyết được C. Owen công bố vào năm 1981: Bước ngoặt quan trọng trong sự tiến hóa của con người là quan hệ một vợ một chồng từ sáu triệu năm trước. Trước đó, người đàn ông alpha (thủ lĩnh) đánh bại tất cả các đối thủ khác để được quan hệ tình dục. Người phụ nữ chỉ được quan hệ với 1 người đàn ông, tuy nhiên, họ ưa chuộng người đàn ông kiếm được nhiều thức ăn và bên cạnh cô ấy để nuôi dạy con cái.
8. Ăn thức ăn chín
Để nuôi chất xám, bộ não cần được cung cấp năng lượng gấp 20 lần so với nhu cầu năng lượng của cơ bắp. Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng loài người không thể tiến hoá nếu ăn chay, não của chúng ta bắt đầu phát triển kể từ khi bắt đầu ăn thịt khoảng 2-3 triệu năm trước, một nguồn thực phẩm giàu protein và chất béo. Và theo nhà nhân chủng học Richard Wrangham, để tiêu hoá thức ăn chín, họ phải sử dụng năng lượng để nhai, nghiền nát thịt, việc đó đã cung cấp năng lượng cho bộ não. Khi não bộ đã đủ phát triển, con người có thể đưa ra một quyết định có ý thức : ăn rau, củ, quả.
Thức ăn nấu chín giúp bộ não phát triển hơn.
9. Ăn tinh bột
Việc nạp tinh bột vào cơ thể giúp tăng kích thước bộ não bởi thức ăn được nấu chín cùng các loại rau củ và một số loại tinh bột khác là nguồn thực phẩm tuyệt vời cho não, lại sẵn có hơn so với thịt. Enzym trong nước bọt giúp chuyển hoá carbohydrates thành glucose bộ não cần. Mark G. Thomas, một nhà di truyền học tiến hoá cho hay : ADN của người chứa nhiều đoạn lặp amylase (chứa liên kết của tinh bột và glucose) khiến cho não bộ phát triển đột phá.
10. Đi bằng 2 chân
Liệu rằng việc di cư từ trên cây xuống mặt đất và di chuyển bằng 2 chân là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá của loài người?
3 triệu năm trước đây ,Châu Phi trở nên nóng hơn, diện tích rừng giảm, thay vào đó là cảnh quan thảo nguyên. Để thích nghi, loài linh trưởng đã phải đứng bằng 2 chân, từ đó, có thể dễ dàng quan sát con mồi , đồng thời di chuyển nhanh hơn trong không gian nguồn nước và nguồn thức ăn cách xa nhau. Tuy nhiên, sự phát hiện ra bộ xương hoá thạch Ardipithecus ramidus (gọi tắt là Ardi) có niên đại 4.4 triệu năm tại Ethiopia đã đặt ra một mâu thuẫn với giả thuyết trên : tại một vùng ẩm ướt và nhiều cây cối nhưng Ardi vẫn có thể đi bằng 2 chân.
Con người không phải loài duy nhất có thể đi bằng 2 chân trong họ linh trưởng.
11. Thích nghi với môi trường sống
Richard Potts, giám đốc Chương trình Nguồn gốc con người Smithsonian tuyên bố: sự tiến hóa của con người bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi khí hậu phức tạp. Sự xuất hiện của các chủng Homo gần ba triệu năm trước đây trùng khớp với những biến động khắc nghiệt giữa khí hậu ẩm ướt và khô nóng. Qua quá trình chọn lọc tự nhiên, loài linh trưởng có thể đối phó với sự thay đổi khôn lường và ông cũng khẳng định rằng “khả năng thích nghi chính là đặc tính của con người”.
12. Đoàn kết và chinh phục
Nhà nhân chủng học Curtis Marean chỉ ra một tầm nhìn về nguồn gốc loài người : một kẻ xâm chiếm tối thượng. Sau hàng chục ngàn năm chỉ giới hạn ở một lục địa duy nhất, loài người đã có mặt trên toàn cầu. Tại sao họ có thể làm được điều đó? Đáp án ở đây là sự hợp tác được nảy sinh từ xung đột, chứ không phải do sự giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác của nhóm linh trưởng là một lợi thế cạnh tranh so với các nhóm đối thủ, và họ sống sót. Marean nói rằng sự kết hợp giữa khuynh hướng độc đáo này cùng khả năng nhận thức tiên tiến giúp chúng ta thích nghi với môi trường mới, đồng thời thúc đẩy sự phát triển, tạo tiền đề cho công nghệ vũ khí tên lửa tiên tiến.
Vậy những học thuyết trên có gì sai?
Các học thuyết trên phần lớn nhận được sự đồng tình nhưng vẫn gây ra nhiều tranh cãi: loài người có thể được xác định bởi một đặc điểm hoặc một nhóm đặc điểm, và mỗi một giai đoạn trong quá trình tiến hoá lại là một bước ngoặt quan trọng trên con đường trở thành Người thông minh (Homo Sapien).
Tuy nhiên loài người không tiến hoá theo một hướng nhất định mà chỉ là sống sót, thích nghi như Australopithecus hay Homo erectus.
Không có đặc điểm nào được cho là bước ngoặt vĩ đại bởi kết quả đều không được biết chắc chắn. Các bước ngoặt như sáng tạo dụng cụ lao động, săn bắt, ăn thịt, rau củ, hợp tác, thích nghi cũng như có bộ não lớn (là loài người bây giờ) không cho ta 1 kết luận chính xác bởi trên thực tế, cho tới tận bây giờ loài người vẫn tiếp tục tiến hoá không ngừng.
Vai trò:
_ Có vai trò cung cấp thực phẩm, sức khoẻ, làm dược liệu, làm đồ mĩ nghệ, là đối tượng thí nghiệm sinh học và tiêu diệt các loài gặm nhấm co hại
_ Các biện pháp bảo vệ môi trường sống:
+ Bảo vệ các động vật hoang dã
+ Xây dựng khu bảo tồn động vật
+ Tổ chức chăn nuôi các loài thú có giá trị kinh tế
Tại sao lại nói trùng giày là động vật tiến hóa nhất trong giới động vật nguyên sinh
Cần gấp
- thế nào là hiện tượng sơ vữa động mạch
- chứng minh con người là sinh vật tiến hóa nhất trong giới sinh vật
1/xơ vữa động mạch
Tùy theo mỗi vùng xuất hiện điểm tắc nghẽn mạch máu mà xơ vữa động mạch có các triệu chứng khác nhau, trong đó có 3 khu vực gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất và gây nguy hiểm đến tính mạng như sau:
Hiện tượng xơ vữa động mạch chủ ngực: Đây là trường hợp rất nguy hiểm, bệnh sẽ không có triệu chứng rõ ràng, khi tiến hành chụp X quang sẽ thấy hình ảnh động mạch chủ trở nên to và đậm màu hơn bình thường, chỉ khi khu vực xơ vữa đã lan đến vành tim hoặc van động mạch chủ thì người bệnh mới có những triệu chứng: tức ngực, khó thở, cảm giác hồi hộp.Bệnh xơ vữa động mạch vành tim: Khi bị ở vành tim sẽ khiến máu khó lưu thông, thiếu máu cục bộ, có khả năng gây nhồi máu cơ tim và cảm giác đau tức ở ngực, một số biểu hiện khác như: suy tim mà không thể hồi phục, loạn nhịp tim.Hiện tượng xơ vữa động mạch não: đây là triệu chứng nguy hiểm nhất, khi nơi xơ vữa khiến tắc nghẽn động mạch não sẽ làm người bệnh suy giảm trí nhớ, bại liệt, tổn thương não, thậm chí là vỡ mạch máu não, nhũn não và nhiều tổn thương nghiêm trọng khác.nguyên nhân phổ biến gây ra xơ vữa động mạch là:
Mỡ máu – Cholesterol quá caoCao huyết ápTiểu đường, béo phì2/CM con nguoi la dong vat tien hoa nhatMầm của sự sống đã có từ khi vũ trụ này hình thành khoảng 15 tỷ năm trước từ một Big Bang, và rồi Thái Dương Hệ thành hình cách đây khoảng 5 tỷ năm trong đó có trái đất mà chúng ta đang sống trên đó. Nhưng mãi gần đây, khoảng 5 triệu năm trước, cái cây của sự sống trên trái đất mới tách ra một nhánh đặc biệt, nhánh của loài người. Sự kiện khám phá bởi khoa học này đã kiểm chứng ý tưởng tổng quát về Tiến Hóa của Charles Darwin trong cuốn Nguồn Gốc Các Chủng Loại và nhất là cuốn Nguồn Gốc Con Người. Loài người có cùng chung một cơ chế vận hành căn bản về di truyền với tất cả các chủng loại khác, định hình bởi những lực tiến hóa. Đây là một sự kiện đã được kiểm chứng. Tất cả những lý thuyết khác về nguồn gốc con người, nhất là từ những tín điều tôn giáo mà còn một số người vẫn còn tin cho đến ngày nay, đều chỉ là huyền thoại.
Sự kiện trên bắt nguồn từ sự khám phá ra “bộ gen” (genome), còn được biết là “mật mã di truyền” (genetic code) trong cơ thể con người. Điểm kỳ diệu trong tư tưởng của Darwin là khi hoàn thành những tác phẩm để đời trên, Darwin không hề có một ý niệm gì về “gen” hay DNA (Deoxyribose Nucleic Acid), một hóa chất mà cho tới năm 1953 các khoa học gia mới biết là giữ vai trò quyết định trong cơ chế di truyền. Từ đó, các nhà Di Truyền Học đã so sánh DNA trong các dân số khác nhau trên thế giới, cộng với những kết quả đã tìm thấy của các nhà khảo cứu Cổ Sinh Vật Nhân Chủng Học (paleoanthropologists) về các di vật của người đã hóa thạch (fossils) cùng vài bộ môn khoa học khác như sinh học, sinh hóa học v..v.., ngày nay các khoa học gia đã có thể biết được khá chính xác về nguồn gốc con người, nguồn gốc các sắc dân trên thế giới.
Những hiểu biết ngày nay về “bộ gen” (genome) đã cho phép chúng ta giải thích được nguồn gốc của con người, lịch sử loài người và bản chất con người. Những khám phá khoa học này lẽ dĩ nhiên không phải là được tất cả mọi người chấp nhận. Edward O. Wilson đã đưa ra một nhận định rất ý nhị: “Có vẻ như là đầu óc con người (Ki Tô) đã tiến hóa để tin vào các thần chứ không tiến hóa để tin vào sinh học” (It seems that the human (Christian) mind evolved to believe in gods. It did not evolve to believe in biology). Sinh học, cũng như mọi bộ môn khoa học khác, không thích hợp để cho những tín đồ Thần giáo tin.
Có lẽ chúng ta cũng nên biết chút ít về “bộ gen” trong cơ thể con người. “gen” là những đơn vị di truyền trong mọi sinh vật. “Bộ gen” (genome) của con người là một tập hợp đầy đủ những “gen” của con người, được gói ghém thành 23 cặp riêng biệt sắc tố (chromosome). Trong số 23 cặp này, 22 cặp được đánh số theo kích thước, số 1 lớn nhất, số 22 nhỏ nhất. Cặp thứ 23 còn được gọi là “sắc tố định giới tính” (sex chromosome): trong nữ giới gồm có hai sắc tố X lớn, kích thước trong khoảng giữa số 7 và 8, và trong nam giới gồm một sắc tố X và một sắc tố nhỏ, Y. Ngày nay, các khoa học gia đã biết rõ, trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của người cha hợp với sắc tố X của người mẹ thì đứa con sinh ra sẽ là con gái (X,X). Nếu sắc tố Y của người cha hợp với sắc tố X của người mẹ thì đứa con sinh ra sẽ là con trai (X,Y). Khám phá này đương nhiên đã bác bỏ huyền thoại Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, bởi phép của Đức Chúa Thánh Thần (ngôi ba thiên chúa) alias Thánh Linh (Holy Spirit) alias Thánh Ma (Holy Ghost) [Theo Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo]. Bởi vì, bằng phép lạ nào đi chăng nữa, nếu không có tinh khí của đàn ông trong đó có sắc tố Y, thì Giê-su chỉ có thể là con gái. Đây là một sự kiện khoa học, sự kiện này chỉ bác bỏ một huyền thoại cổ xưa chứ không bác bỏ niềm tin vào huyền thoại này của bất cứ ai. Khoa học chỉ có mục đích gần sát với Phật Giáo: “Như Thực Tri Kiến”, và khoa học không bắt buộc ai phải tin vào những khám phá của khoa học.
Trong cơ thể con người có khoảng một triệu triệu (trillion) tế bào, hầu hết kích thước nhỏ hơn 1/10 của một milimét (1/10 mm). Trong mỗi tế bào có một nhân. Trong nhân có hai “bộ gen” (genome) đầy đủ. Một bộ do người cha , và một bộ do người mẹ truyền xuống. Mỗi “bộ gen” gồm có khoảng 60000 – 80000 “gen” xây dựng trên cùng 23 sắc tố. Trên thực tế, thường có sự khác nhau vi tế giữa những “gen” của cha và của mẹ, nguyên nhân của, thí dụ như, màu mắt khác nhau. Mỗi sắc tố là một cặp phân tử dài DNA.
Trong nhiều thập niên, con người đã dựa nhiều vào những di vật hóa thạch để lại bởi tổ tiên loài người đã được tìm thấy để tìm hiểu nguồn gốc loài người. Nhưng những di vật này không đầy đủ và có những quãng cách trong quá trình Tiến Hóa nên một số nhà bảo thủ Ki Tô Giáo đã dựa vào sự thiếu sót này để tấn công, bác bỏ thuyết Tiến Hóa, và lấp vào những khoảng cách đó bằng sự sáng tạo của Thượng đế của họ. Tiến thêm một bước trong công việc đi tìm về nguồn gốc của con người, khoa học gia John Joe McFadden trong cuốn “Quantum Evolution”, đề nghị, trang 72: “Để đi sâu vào lịch sử của sự sống, chúng ta cần đào sâu vào DNA thay vì vào các hòn đá (những sinh vật hóa thạch)” [To go deeper into the history of life we need to dig into DNA, rather than rocks]. DNA (DeoxyriboNucleic Acid) là hóa chất trong nhân của mỗi tế bào trong cơ thể của chúng ta và có tác dụng truyền đi những huấn thị truyền giống để tạo thành sinh vật từ buổi sơ khai đến ngày nay. Và quả vậy, trong vòng 20 năm gần đây, các khoa học gia đã tìm thấy những dấu tích cổ xưa của loài người trong DNA của những người hiện sống ngày nay.
Mật mã di truyền của loài người, hay “bộ gen” (genome), thì hoàn toàn y như nhau tới 99.9% trên khắp thế giới [The human genetic code, or genome, is 99.9% identical throughout the world]
Sự sai biệt còn lại, vào khoảng 0.1% , trong DNA là nguồn gốc của sự khác biệt cá nhân – thí dụ màu mắt hay cơ thể dễ bị nhiễm bệnh, và có những DNA vô dụng, không có một tác dụng gì. Bởi vậy, Phillip Kitcher, Giáo sư Đại học Columbia, đã viết: “Rất nhiều DNA trong những tế bào không cần đến – chỉ là đồ vô dụng. Nếu đó là sự “thiết kế thông minh” [của Thượng đế] thì Thượng đế cần phải trở lại trường học” (A lot of the DNA in there is not needed – it’s junk. If it’s “intelligently designed”, then God needs to go back to school)
Trong quá trình tiến hóa, một sự đột biến vô hại (a harmless mutation) có thể xảy ra trong một trong những DNA vô dụng này, rồi truyền xuống cho tất cả các hậu duệ. Nhiều thế hệ sau, thấy cùng một sự đột biến, gọi là dấu tích (marker), trong DNA của hai người thì chúng ta biết rằng hai người đó có cùng một tổ tiên. So sánh những dấu tích này trong rất nhiều dân tộc khác nhau, các khoa học gia có thể tìm ra dấu vết của những liên hệ tổ tiên. Trong hầu hết “bộ gen”, những sự thay đổi vi tế này thường không rõ rệt khi “bộ gen” của cha hợp với “bộ gen” của mẹ để sinh con. Nhưng có hai nơi trong các “bộ gen” thường xuyên duy trì những sự thay đổi vi tế này. Một gọi là “mitochondrial DNA” (mtDNA) được truyền xuống đứa con nguyên vẹn từ người mẹ, và hầu hết các sắc tố Y, sắc tố quyết định sinh con trai, được người cha truyền xuống nguyên vẹn cho đứa con trai. So sánh mtDNA và sắc tố Y của người dân trong nhiều dân tộc khác nhau, các nhà di truyền học đã có thể biết được đại khái khi nào thì loài người bắt đầu tách ra thành một nhánh riêng trên cái cây của sự sống hay cây tiến hóa.
Tìm hiểu về nguồn gốc con người, không chỉ là các nhà di truyền học, mà các khoa học gia đã phối hợp kết quả nghiên cứu trong ít nhất là 7 ngành khoa học có liên hệ với nhau và hỗ trợ nhau: Cổ Sinh Vật và Nhân Chủng Học (Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology), Di Truyền Dân Số Học (Population genetics), Lịch Sử Ngôn Ngữ Học (Historical linguistics), ngành khảo cứu về các Động Vật Linh Trưởng (Primatology), Nhân Chủng Xã Hội (Social Anthropology), và Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary Psychology). Từ những kết quả nghiên cứu này, điều rõ ràng là, cũng như mọi vấn đề khác trong sinh học, quá khứ và hiện tại của giống người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của Tiến Hóa. [Like everything else in biology, the human past and present are incomprehensible except in the light of evolution. Wade, p. 6]
Sự kiện là, ngày nay khoa học đã giải thích được những sắc thái của các sinh vật, không những chỉ dựa trên ý tưởng căn bản về sự chọn lọc tự nhiên (natural selection) của Darwin, mà còn dựa trên những quá trình sinh học mà chính Darwin cũng không biết tới vì chưa được khám phá ra và phát triển, thí dụ như sự chuyển giao các gen (gene transfer), ngành khảo cứu về các sinh vật sống chung với nhau (symbiosis), sự xếp đặt lại các nhiễm sắc tố (chromosomal rearrangements), và hoạt động của các gen điều hòa (action of regularor genes) v..v.. Kết quả là, sự phân tích hiện đại về các gen đã cung cấp những bằng chứng minh xác lý thuyết của Darwin là mọi chủng loại sinh vật trong đó có loài người đều được tiến hóa từ cùng những chủng loại tổ tiên (ancestral species).
Những kết quả nghiên cứu về “bộ gen “ của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người (ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi (orangutan), vượn (chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và vượn, 99% của “bộ gen” y hệt nhau (identical). Và từ những kết quả này, đi ngược thời gian, các khoa học gia đã biết được là khoảng 5 triệu năm trước, nhánh loài người đã tách ra khỏi nhánh những con khỉ không đuôi trên cái cây tiến hóa. Sau khi tách ra thành một nhánh riêng, loài người nguyên thủy tiến hóa dần dần thành động vật đi hai chân và phát triển thành da đen [bắt đầu ở Phi Châu], mất đi lông trên người, và bộ óc lớn dần cho đến kích thước ngày nay. Rồi cách đây khoảng 50000 năm, ngôn ngữ bắt đầu phát triển, giúp cho loài người sống thành những bộ lạc, cộng đồng v..v.., và bắt đầu di dân ra ngoài Phi Châu. Đó là đại khái về nguồn gốc con người.
Ngoài ra, những công cuộc khảo cứu mới nhất về những con bọ (fruit flies), chương trình khảo cứu “evo devo” [evolutionary development biology] trong sinh học về quá trình phát triển tạo ra cơ thể sinh vật và thay đổi chúng qua thời gian [đại học Wisconsin-Madison] đã chứng tỏ rõ ràng là loài người có cùng họ hàng không chỉ với những loại khỉ mà còn với những con bọ, con sâu trong quá khứ xa nữa (Analysis of the genes that build our bodies show our clear skinship not just to the apes but all the way back to bugs, worms and beyond); rồi chương trình điện toán Avida về các sinh vật tượng trưng bằng số (digital organisms) ở đại học Michigan, Avida không phải là sự tái tạo tiến hóa trên máy điện toán mà chính là hiện tượng tiến hóa (Avida is not a simulation of evolution; it is an instance of it); và nhiều khám phá mới trong mọi ngành khoa học đã càng ngày càng cho thấy Tiến Hóa không còn là một lý thuyết mà là một sự kiện. Kết luận: Không còn nghi ngờ gì nữa, thuyết Tiến Hóa ngày nay đã không còn là một thuyết, mà đã trở thành một sự kiện.
4) Tại sao hình thức đẻ con có nhau thai và nuôi con bằng sữa mẹ là tiến bộ nhất trong giới động vật ?
Ở động vật có vú,chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ qua nhau thai để nuôi thai rất phong phú,nhiệt độ trong cơ thể mẹ rất thích hợp cho sự phát triển của phôi thai
+Phôi thai đc bảo vệ tốt trong cơ thể mẹ, không bị các động vật khác ăn
Nhờ 2 lý do trên nên tỉ lệ phôi thai chết rất thấp
=>Đẻ con có nhau thai và nuôi con là tiến hóa nhất trong giới động vật.
Khi nói về thuyết tiến hóa tổng hợp, có bao nhiêu phát biểu sau đây đúng ?
(1) Hình thành loài được xem là ranh giới giữa tiến hóa nhỏ và tiến hóa lớn.
(2) Quần thể là đơn vị tồn tại nhỏ nhất của sinh vật có khả năng tiến hóa.
(3) Tiến hóa sẽ không thể xảy ra nếu đơn vị tiến hóa không có biến dị di truyền.
(4) Một trong những thành tựu là đã giải thích được sự thống nhất trong đa dạng của sinh giới.
A. 2
B. 1
C. 4
D. 3
Đáp án D
Các phát biểu đúng là: (1), (2), (3)
(4) sai, thuyết tiến hóa tổng hợp chưa giải thích được sự thống nhất trong đa dạng của sinh giới mà nhờ vào các bằng chứng tiến hóa.
Tại sao nói thú là động vật tiến hóa nhất trong các động vật có xương sống
Vì:
- Tim gồm 4 ngăn ( 2 tâm thất và 2 tâm nhĩ) , máu đi nuôi cơ thể là máu đỏ tươi, phổi có nhiều túi khí.
- Răng phân hóa ( răng cưa , răng nanh , răng hàm)
- Thai sinh, nuôi con bằng sữa mẹ.
- Bộ não phát triển.
- Tim gồm 4 ngăn ( 2 tâm thất và 2 tâm nhĩ) , máu đi nuôi cơ thể là máu đỏ tươi, phổi có nhiều túi khí.
- Răng phân hóa ( răng cưa , răng nanh , răng hàm)
- Thai sinh, nuôi con bằng sữa mẹ.
- Bộ não phát triển
Trong giới Động vật, loài sinh vật nào hiện đứng đầu về mặt tiến hóa ?
A. Con người
B. Gôrila
C. Đười ươi
D. Vượn
Đáp án A
Trong giới Động vật, con người hiện đứng đầu về mặt tiến hóa
Trong giới Động vật, loài sinh vật nào hiện đứng đầu về mặt tiến hóa ?
A. Con người
B. Gôrila
C. Đười ươi
D. Vượn
Chọn đáp án: A
Giải thích: Con người nằm ở vị trí cao nhất trên thang tiến hoá của sinh giới nói chung và của giới Động vật nói riêng.
Trong giới Động vật, loài sinh vật nào hiện đứng đầu về mặt tiến hóa
A. Con người
B. Gôrila
C. Đười ươi
D. Vượn