Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Đinh Thị Hường
Xem chi tiết
Tran An
22 tháng 3 2019 lúc 2:55

- Tên danh lam thắng cảnh: Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.

- Nằm ở huyện Bố Trạch và Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình.

- Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.

- Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 3 tháng 7 năm 2015.

- Được nhà nước xếp hạng vào vườn quốc gia, cần được bảo tồn.

 

Đỗ Lê Thùy Dung
Xem chi tiết
Việt Best Zuka
8 tháng 5 2019 lúc 18:55

Tháp Bình Sơn được xây dựng vào thế kỷ thứ XIV với nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Trước đây, Tháp có 15 tầng nhưng hiện chỉ còn 12 tầng. Tháp cao 14 thước 70, hình vuông, nhỏ dần về phía ngọn, và được xây từ 13.200 viên gạch nung. Phần ruột Tháp có một khoảng trống nhỏ chạy suốt chân Tháp lên ngọn. Xung quanh Tháp được ốp một lớp gạch vuông, phủ kín thân Tháp. Mặt ngoài của lớp gạch ốp này được trang trí hoa văn phong phú mang đặc trưng của nghệ thuật thời Lý – Trần.  

 Tương truyền ngôi tháp có 15 tầng nhưng nay chỉ còn 11 tầng. Tháp cao 16 mét, lòng tháp rỗng. Bệ tháp hình vuông, mỗi cạnh dài 4,45 mét thu nhỏ dần lên đỉnh, tầng trên cùng mỗi cạnh dài 1,55 mét. Tháp Bình Sơn được xây bằng gạch nung già, màu đỏ sậm. Dấu vết hoa văn trang trí trên thân tháp hiện còn là những họa tiết hoa cúc, cánh sen, cánh đề, sư tử hí cầu, rồng chạm nổi… Trải qua nhiều thế kỷ mưa nắng dãi dầu, lại thường bị lũ lụt tràn về tàn phá, đã có lúc tháp bị nghiêng lệch và sụt lở.

Điều đáng ghi nhận là vào đầu thập niên 1970, mặc dầu trong hoàn cảnh chiến tranh, Bộ Văn hóa Thông tin kết hợp cùng Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Vĩnh Phú đã chỉ đạo và phối hợp với nhiều ban ngành như: Xưởng phục chế di tích của Bộ Văn hóa, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương, Hợp tác xã cao cấp gốm sành Hương Canh cùng các nghệ nhân bỏ nhiều công sức để phục dựng, cứu vãn ngôi tháp tồn tại đến ngày nay. Trong các lần trùng tu, mặc dầu đã chọn đất rất kỹ, chọn phương pháp nung tối ưu nhưng chất lượng gạch mới vẫn không thể sánh với gạch nung nguyên thủy của tháp nên đã bị rêu đóng.

Gần tháp có một vũng nước được bao bọc bằng bờ gạch, mà người ta thường gọi là giếng. Tương truyền đất của giếng là một ngôi tháp, được gọi là tháp Xanh. Một hôm, ngôi tháp biến mất, còn lại miệng giếng như hiện nay?

Thông thường nếu là giếng thì miệng giếng phải tròn đều, đằng này miệng giếng hình hơi thuẫn (đường kính dài khoảng 4 mét và đường kính ngắn khoảng 3 mét). Còn nếu là tháp thì chân tháp cũng phải hình vuông hay hình chữ nhật, nền móng phải có độ dày. Phải chăng cái giếng là một ngôi mộ cổ đã được bốc dỡ?

Ngoài ra, trước chánh điện chùa Vĩnh Khánh (giữa ngôi tháp và giếng) có một cây sứ khá đẹp, tương truyền cây sứ đó đã trên 500 năm tuổi. Cần xác định niên đại, nếu quả thật cây sứ ấy trên 500 năm thì thật quý giá, cần phải bảo tồn.

Đại đức Thích Kiến Nguyệt, Trưởng ban Văn hóa Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc, Trưởng ban Hưng công Thiền phái Trúc Lâm được Sở Văn hóa-Thể thao & Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc (chủ đầu tư) đề cử thi công Dự án tu bổ, tôn tạo di tích Bình Sơn cho biết: “Tôi được biết tháp Bình Sơn là một trong 5 tháp quý có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo, đó là tháp Báo Thiên (Hà Nội), tháp Tường Long (Hải Phòng), tháp Phổ Minh (Nam Định), tháp Báo Ân và tháp Bình Sơn. Trong đó, tháp Bình Sơn có hoa văn khác hẳn, kiến trúc không hẳn của Chàm, có pha lẫn nét Ấn Độ. Đây là vấn đề cần nghiên cứu kỹ để Phật tử hiểu biết thêm về nét văn hóa đời Trần”.

Được biết, tháp Bình Sơn nằm trong tuyến du lịch tâm linh tham quan thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (chỉ cách thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên khoảng 20 cây số). Vì thế, ngôi tháp cổ Bình Sơn cần được bảo tồn, nghiên cứu bài bản để giới thiệu cho du khách, nhất là du khách Phật giáo.

Đỗ Lê Thùy Dung
8 tháng 5 2019 lúc 19:07

cảm ơn bạn nha!

Nguyễn Phúc Thắng
Xem chi tiết
Harry Lu
15 tháng 4 2018 lúc 9:22

Đó là danh lam thắng cảnh nào hả bn ???

Dương Võ Thu Giang
15 tháng 4 2018 lúc 9:27

Đạo đức lớp 5 hả

Đoàn Lê Na
Xem chi tiết
Đoàn Anh Minh Hoàng
Xem chi tiết
Đoàn Anh Minh Hoàng
12 tháng 12 2021 lúc 14:52

ý mình là bài viết thứ 4 mà ko đc tick ấy là bài viết thứ 4 về 1 chủ đề sẽ ko đc tick

em hok rốt cần ôn
Xem chi tiết
Dung Lưu
16 tháng 3 2022 lúc 10:08
Đốt cháy hết m gam Mg cần vừa đủ V lít khí oxi (đktc). Sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn thu được 0,8 gam chất rắn. Giá trị của m và V lần lượt là: *   0,24 gam và 0,224 lít.   0,48 gam và 0,448 lít.   0,48 gam và 0,224 lít.   0,24 gam và 0,448 lít.
Đạt Thanh
Xem chi tiết
Đạt Thanh
17 tháng 12 2021 lúc 7:41

ai giúp tui vs ạ

 

Phạm Lê Gia Hân
Xem chi tiết
gfgg
17 tháng 11 2023 lúc 19:30

ko biết

Hà Minh Trí
17 tháng 11 2023 lúc 19:34

ko biết thì nhắn làm đ*o gì hay nhỉ ?
 

Bùi Đăng Khoa
17 tháng 11 2023 lúc 20:04

Huyền thoại lăng ông Trấn :                                                                                             Lúc nhỏ nghe nội tôi kể là vùng này trước đây cây cối rậm rạp, um tùm, ít người qua lại nên không gian rất vắng vẻ, u tịch. Một buổi chiều nọ, lúc trời đã tắt nắng, bỗng dưng không biết từ đâu có một con ngựa chiến chạy đến và dừng lại nơi này. Nó cất tiếng hí vang khẩn thiết. Dân làng nghe tiếng ngựa hí vội vàng chạy đến. Người bao quanh mỗi lúc một đông. Và ai cũng vô cùng ngạc nhiên trước một hiện tượng hết sức kì lạ: Trên lưng ngựa là một vật gì đó được bao bọc rất cẩn thận trong tấm nhung y màu đỏ đã nhuốm bụi đường. Con ngựa hí thêm mấy tiếng nữa rồi quỳ xuống lắc nhẹ, húc đầu vào bọc nhung y đặt xuống đất. Sau đó ngựa duỗi bốn chân, thở hồng hộc rồi tắt lịm dần.

Trong khi mọi người ngơ ngác thì ông già T - người cao tuổi trong làng bảo mọi người tránh ra để ông lại gần xem thử trong lớp nhung y đó là gì. Ông hồi hộp mở từng lớp vải… Ông giật mình, nín thở khi nhận ra bên trong lần vải là một thủ cấp. Nhìn kĩ là một gương mặt quen thuộc nhưng ông không thể nào nhớ ra. Ông đắp lại cẩn thận rồi đi báo với chính quyền để tỏ ngọn nguồn.

Nghe đến đây tôi không tránh khỏi sự tò mò, buột miệng hỏi:

- Rồi sau đó thì sao hở nội?

Bà tôi thong thả nhai miếng trầu rồi kể tiếp:

- Thì ra đó là thủ cấp của ông Trần Công Hiến - người xóm mình đó con. Nghe đâu ông làm quan to ở một tỉnh ngoài Bắc. Trong lúc đánh trận ông bị giặc chém đầu. Con ngựa trung thành quì phục bên cạnh thi hài chủ nước mắt ròng ròng. Khi giặc rút đi, dân làng gói thủ cấp lại cẩn thận đặt lên lưng ngựa và chỉ tay về hướng trời Nam, bảo nó hãy mang chủ về quê. Con ngựa vâng lời, ngày đêm ròng rã vượt núi băng đèo mà đi. Có lẽ hồn ông Trấn linh thiêng chỉ bảo nên ngựa đã về đến tận quê hương và đuối sức nên gục ngã bên chủ. Ngay sáng hôm sau, cả làng tập trung làm lễ mai táng hết sức trang nghiêm. Sau đó chính quyền trích kinh phí cùng nhân dân xây lăng, khắc bia ghi công cho ông và bên cạnh lăng cũng xây mộ con ngựa có nghĩa.

Tôi thầm cảm phục ông quan Trấn và thương cho con ngựa trung thành. Tôi bèn đem chuyện kể lại cho đám bạn nhỏ hàng xóm nghe. Chúng nó háo hức rủ tôi lên xem lăng ông Trấn. Nhưng khi đến khu vực lăng thì không đứa nào dám vô. Một cảm giác rờn rợn mơ hồ choáng ngợp tâm hồn con trẻ. Chúng tôi đứng lặng im, chăm chú quan sát từ xa. Bên trong lũy tre xanh mướt bao bọc quanh lăng đang rì rào trong ánh chiều buông là một không gian trầm mặc. Cây sinh tuế xanh um tràn trề nhựa sống trước lăng như người lính canh giữ, bảo vệ mộ phần. Tấm bia khắc chữ Nho sừng sững ghi công đức của ông lưu mãi đến ngàn năm. Cảnh vật im ắng, chỉ nghe tiếng lá tre thì thào đáp lại lời gió làm cho tôi nhớ lại lời kể huyền thoại của nội hôm nào: Mỗi khi hoàng hôn buông xuống là nghe tiếng “lục lạc” của vó ngựa đi về. Và còn nghe cả tiếng ngựa hí vang xa nữa. Bà dặn tôi không nên đi qua vùng này lúc chiều tà.

Chuyện ngày xưa bà kể cứ ghi sâu vào tâm thức tuổi thơ. Mãi đến khi học lên các lớp trên, trong giờ lịch sử địa phương tôi được nghe thầy giáo kể rằng: Vào năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn, lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, lập ra triều Nguyễn, Trần Công Hiến được bổ chức Trấn thủ Hải Dương. Ông nổi tiếng là một quan lại ái quốc ưu dân, giàu tài năng và tâm huyết. Ông được giao trọng trách ở một vùng biên trấn, cùng chịu chung hoàn cảnh đất nước vừa phải gánh chịu ba thế kỷ chiến cuộc triền miên, lại thêm thiên tai mất mùa, ruộng đồng hoang hóa, giặc cướp bên trong, giặc Tàu ô ngoài biển. Quả là một thách thức lớn đối với vị võ quan vừa từ trận tiền trở về, nhung y còn vương mùi thuốc súng.

Không phụ lòng tin của triều đình và bá tánh, Trần Công Hiến đã nhanh chóng đề ra các giải pháp nhằm cấp thời ổn định đời sống người dân, khuyến khích sản xuất, dẹp yên nạn trộm cướp, kiềm phòng giặc Tàu ô. Công lao rất lớn của ông có ý nghĩa lâu dài về dân kế, dân sinh là việc huy động nhân lực đắp đê lấn biển, biến hơn tám ngàn mẫu ruộng ngập mặn ở hai huyện Vĩnh Lại và Tứ Kỳ thành ruộng thuần để dân nông cày cấy. Nhân dân tỉnh Hải Dương nhớ ơn ông gọi tên con đê ấy là đê Trần Công.

Năm Ất Sửu (1805) Trần Công Hiến cho đo vẽ bản đồ hình thế núi sông, bến đò, chợ quán, đường sá ở Hải Dương dâng về kinh đô. Cùng thời gian này, ông trực tiếp cầm quân dẹp tan bọn giặc cướp quấy phá vùng cửa biển, giữ cho người dân cuộc sống yên bình.

Vào năm 1817, Trần Công Hiến qua đời tại trấn sở trong niềm thương tiếc của triều đình, thuộc lại, bằng hữu và dân chúng Hải Dương. Di hài ông được đưa về Quảng Ngãi, an táng ở quê ngoại, làng Mỹ Huệ, phủ Bình Sơn. Người dân ở đây kính trọng gọi ngôi mộ Trần Công Hiến là “Mộ Ông lấp biển”, vừa nhắc đến công lao lấn biển, mở đất ở Hải Dương lúc sinh thời, vừa ngụ ý xem ông như một vị lương thần, uy đức “vá trời, lấp biển”.

Giờ lịch sử hôm ấy thật diệu kì, tôi như sống lại với câu chuyện bà tôi kể ngày xưa. Xâu chuỗi cả huyền thoại đời thường và trang sách, tôi càng kính trọng những bậc công thần vì nước vì dân và được nhân dân cảm phục, tin yêu.

Không gian huyền hoặc nơi " Mộ ông lấp biển" cũng đã phai nhạt theo thời gian nhưng cây sinh tuế cổ thụ bên lăng vẫn là chứng nhân trường tồn của lịch sử. Mặc cho mưa tuôn, nắng cháy nó vẫn xanh tươi như có sức sống diệu kì. Tiếng lục lạc và tiếng ngựa hí tình nghĩa vẫn như còn vọng lại đâu đây trên quê hương của “Ông quan lấp biển” một thời.

Hiện nay, Lăng ông Trấn được sửa sang khuôn viên, trồng thêm cây xanh bóng mát nên cảnh quang thật đẹp. Năm 2022, chính quyền và nhân dân Xã Bình Dương tưng bừng tổ chức Lễ đón nhận Bằng công nhận Mộ Trần Công Hiến là Di tích lịch sử cấp Tỉnh.

Nguyễn Hoàng Hải
Xem chi tiết
Phạm Thị Kim Ngân
16 tháng 3 2022 lúc 13:42

Theo "Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam" thì trên cả nước hiện nay chỉ có 6 văn miếu: Văn miếu Quốc Tử Giám, Văn miếu Huế, Văn miếu Hưng Yên, Văn miếu Hải Dương, Văn miếu Bắc Ninh, Văn miếu Đồng Nai. Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn miếu Xích Đằng (vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng), nguyên xưa là Văn Miếu của Trấn Sơn Nam (căn cứ vào Khánh, Chuông của di tích), nhưng đến năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập thì Văn miếu Hưng Yên thuộc hàng tỉnh. Văn miếu Hưng Yên được khởi dựng từ thế kỷ XVII và được trùng tu, tôn tạo lớn vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 20 (1839), đời vua Nguyễn Thánh Tổ(1820 -1840), trên nền của chùa làng Xích Đằng, xã Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động xưa, nay là phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Dấu tích còn lại đến ngày nay là 2 tháp đá: Phương Trượng Tháp và Tịnh Mãn Tháp. Hiện tại Văn miếu đang thờ Đức Khổng Tử, người được suy tôn là "Vạn thế sư biểu", và các chư hiền của nho gia. Cùng thờ với Khổng Tử là Chu Văn An, người thầy giáo, người hiệu trưởng đầu tiên của Trường Quốc Tử Giám. Năm 1992, Văn miếu Hưng Yên được Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử. Ban thờ Chu Văn An tại Văn miếu Hưng Yên Ảnh: Đức Hùng Văn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái của các tòa được làm liên hoàn kiểu "Trùng thiềm điệp ốc". Mặt tiền Văn miếu quay hướng Nam, cổng Nghi môn được xây dựng đồ sộ, bề thế, mang dáng dấp cổng Văn miếu Hà Nội. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Khu nội tự gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụ trốn. Toàn bộ khu nội tự Văn miếu tỏa sáng bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột đều được sơn thếp phủ hoàn kim rất đẹp. Nơi thờ Đức Khổng Tử tại Văn miếu Hưng Yên Ảnh: Đức Hùng. Hiện vật quý giá nhất của Văn miếu là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ161 vị đỗ đại khoa ở Trấn Sơn Nam thượng ngày xưa (trong đó tỉnh Hưng Yên có 138 vị, tỉnh Thái Bình 23 vị) thuộc các triều đại Trần, Mạc, Lê đến Nguyễn. Học vị cao nhất là Trạng nguyên Tống Trân (người thôn An Cầu, huyện Phù Cừ) đời Trần; Trạng nguyên Nguyễn Kỳ(người xã Bình Dân, huyện Đông An) triều Mạc; Trạng nguyên Dương Phúc Tư (người xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm) triều Lê. Chức vụ cao nhất là tiến sĩ Lê Như Hổ, Quận công triều Mạc. Ngoài ra còn có một số dòng họ đỗ đạt cao như họ Dương ở Lạc Đạo (Văn Lâm); họ Vũ, họ Hoàng ở Ân Thi; họ Lê Hữu ở Liêu Xá (Yên Mỹ)...; một số huyện có nhiều nhà khoa bảng như: Văn Giang, Ân Thi, Yên Mỹ, Tiên Lữ, Kim Động...Ca Trù là nét văn hóa đặc sắc tại Văn miếu mỗi dịp xuân về. Văn miếu xưa kia có 2 mùa lễ hội, trọng hội là ngày 10.2 và ngày 10.8 hàng năm. Cứ vào các ngày trọng hội, các vị nho học và quan đầu tỉnh phải đến Văn miếu tế lễ để thể hiện nề nếp nho phong, tôn sư trọng đạo, làm gương cho con cháu, cầu mong sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Ngày nay, hằng năm cứ vào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổ chức sinh hoạt văn hóa, đó là tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về. Văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển. Du khách nước ngoài tham quan một trong 9 tấm bia đá ghi danh các vị đỗ đại khoa, hiện còn lưu giữ tại Văn miếu Hưng Yên. Để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của con người và cũng là hòa đồng với sự phát triển chung của xã hội. Văn miếu Hưng Yên đang được quy hoạch với quy mô khá hoàn thiện với tổng diện tích gần 6 ha. Năm 2004, tỉnh Hưng Yên đã có chủ trương trùng tu, tôn tạo các hạng mục công trình như vốn có của di tích, được phân thành các khu chức năng khác nhau, như: Văn hóa khuyến học, khu Đền Lạc Long Quân, khu văn hóa, khu Chùa Nguyệt Đường, khu Hồ Văn, Đầm Vạc. Các công trình dần được phục hồi và tôn tạo để Văn miếu Hưng Yên trong tương lai gần sẽ trở thành một trung  tâm khuyến học và điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh Hưng Yên.

bạn nha! bài làm của mình nè

Khách vãng lai đã xóa