Những câu hỏi liên quan
huyền phạm
Xem chi tiết
Huỳnh Kim Ngân
16 tháng 5 2022 lúc 11:39

TK:

Ở địa phương Hưng Yên người dân chủ yếu kiếm sống bằng nghề nông nghiệp.Các sản phẩm:lúa,cá,tôm,hoa quả,…

Bình luận (2)
Cao ngocduy Cao
16 tháng 5 2022 lúc 11:41

Tham Khảo :

Ở địa phương Hưng Yên người dân chủ yếu kiếm sống bằng nghề nông nghiệp.Các sản phẩm:lúa,cá,tôm,hoa quả,…

Bình luận (1)
Huỳnh Kim Ngân
16 tháng 5 2022 lúc 11:44

tham khảo:

Ở địa phương Hưng Yên người dân chủ yếu kiếm sống bằng nghề nông nghiệp.Các sản phẩm:lúa,cá,tôm,hoa quả,…

Bình luận (0)
Nguyễn Nguyễn
Xem chi tiết
Nguyễn Văn Bé
17 tháng 5 2016 lúc 16:55

Các nước đông nam á:

Indonesia

Myanmar

Thái Lan

Việt Nam

Malaysia

Philippines

 Lào

 Cambodia

Đông Timor

Brunei

Singapore

Đặc điểm chung về điều kiện tự nhiên của các nước đông nam á:

a) Địa hình
Các dải núi của bán đảo Trung Ấn là những dải núi nối tiếp dãy Hi-ma-lay-a chạy dài theo hướng bắc - nam và tây bắc - đông nam, bao quanh những khối cao nguyên thấp. Các thung lũng sông cắt xẻ sâu làm cho địa hình của khu vực bị chia cắt mạnh. Đồng bằng phù sa tập trung ờ ven biển và hạ lưu các sông.
Phần hải đảo là nơi thường xảy ra động đất, núi lửa do nằm trong khu vực không ổn định của vỏ Trái Đất. Vùng đất liền và thềm lục địa của khu vực chứa nhiều tài nguyên quan trọng như quặng thiếc, kẽm, đổng, than đá, khí đốt, dầu mỏ...

b) Khí hậu, sông ngòi và cảnh quan
Gió mùa mùa hạ của khu vực Đông Nam Á xuất phát từ vùng áp cao của nửa cầu Nam thổi theo hướng đông nam. vượt qua Xích đạo và đổi hướng thành gió tây nam nóng, ẩm mang lại nhiều mưa cho khu vực. Gió mùa mùa đông xuất phát từ vùng áp cao Xi-bia thổi vé vùng áp thấp Xích đạo, với đặc tính khô và lạnh. Nhờ có gió mùa nên khí hậu Đóng Nam Á không bị khô hạn như những vùng cùng vĩ độ ở châu Phi và Tây Nam Á. Song khu vực này lại bị ảnh hưởng của các cơn bão nhiệt đới hình thành từ các áp thấp trên biển. thường gây nhiều thiệt hại về người và của.

Các sông ở đảo thường ngắn và có chế độ nước điều hòa.
Các đồng bằng châu thổ có đất phù sa màu mỡ, khí hậu nóng ẩm. nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho việc trồng lúa nước, do đó dân cư tập trung đông đúc, làng mạc trù phú.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện cho rừng nhiệt đới ẩm thường xanh phát triển trên phần lớn diện tích của Đông Nam Á. Chỉ có một số nơi trên bán đảo Trung Ấn lượng mưa dưới l000 mm/năm, có rừng rụng lá theo mùa, rừng thưa và xa van cây bụi.
 

Bình luận (0)
Nguyễn Thế Bảo
17 tháng 5 2016 lúc 16:58

Các nước trong khu vực Đông Nam Á: Có 11 nước:  Việt NamCampuchiaĐông TimorIndonesiaLàoMalaysiaMyanmaPhilippinesSingapore,Thái Lan và Brunei

1. Vị trí địa lí- địa hình:

- Là bộ phận nằm ở rìa phía Nam của lục địa.

- Phía Bắc: miền nuí Hymalaya cao, đồ sộ, hướng Tây Bắc

– Đông Nam, dài 2000km, rộng 320 – 400km.

- Nằm giữa: đồng bằng Ấn Hằng bồi tụ, thấp, rộng, dài hơn 3000km, rộng 250 – 350km.

- Phía Nam: sơn nguyên Đêcan vơi 2 rìa được nâng cao thành 2 dãy Gát Đông và Gát Tây cao trung bình 1300m.

2. Khí hậu, sông ngòi, cảnh quan tự nhiên

a/ Khí hậu:

- Nam Á có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Là khu vực mưa nhiều của thế giới.

- Do ảnh hưởng sâu sắc của địa hình nên lượng mưa phân bố không đều.

- Nhịp điệu hoạt động của gió mùa ảnh hưởng rất lớn đến nhịp điệu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong khu vực.

b. Sông ngòi, cảnh quan tự nhiên

- Nam Á có nhiều sông lớn: sông Ấn, sông Hằng, sông Bramaput.

- Các cảnh quan tự nhiên chính:

+ Rừng nhiệt đới.

+ Xa van.

+ Hoang mạc núi cao.

Chúc bạn học tốt!hihi

Bình luận (0)
Huỳnh Thị Đông Thi
18 tháng 5 2016 lúc 8:20

- Nằm trong khu vực Đông Nam Á gồm 11 nước : Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Malaixia, Singapo, Indonesia, Philipin, Brunây, Đông Ti Mo.

- Điều kiện tự nhiên : Đều chịu ảnh hưởng của gió mùa. Có 2 mùa rõ rệt : mùa khô lạnh, mát; mùa mưa tương đối nóng rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp

 

Bình luận (2)
Nguyễn Văn Dũng
Xem chi tiết
TV Cuber
28 tháng 3 2022 lúc 16:11

refer

 

Đến nửa đầu thể kỉ XVIII, kinh tế nông nghiệp ở Đàng Trong còn có điều kiện phát triển, vì:

- Vùng đất Đàng Trong mới được khai thác, đất đai nhiều, màu mỡ nhất là vùng Nam Bộ, dân cư còn thưa thớt, khí hậu thuận lợi cho nông nghiệp phát triển,...

- Chính quyền chúa Nguyễn có những biện pháp tích cực để phát triển nông nghiệp như:

+ Tổ chức di dân khai hoang, cấp nông cụ, lương ăn, lập thành làng ấp.

+ Riêng ở Thuận Hóa năm 1771, chúa Nguyễn chiêu tập dân lưu vong, tha tô thuế binh dịch 3 năm, khuyến khích họ trở về quê hương làm ăn.

=> Nhờ khai hoang và điều kiện tự nhiên thuận lợi nền nông nghiệp ở Đàng Trong phát triển rõ rệt

Bình luận (0)
Tạ Bảo Linh
Xem chi tiết
Tạ Bảo Linh
25 tháng 4 2022 lúc 19:04

giúp mình với mình đang vội vì tí nữa mình đi học thêm rồi

Bình luận (0)
Nguyễn Hoài An
25 tháng 4 2022 lúc 19:12

Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm 24,20C. Hiện nay, tỉnh có diện tích tự nhiên 1.231 km2, phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp Hà Nội, phía Đông giáp 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh - Hà Nội, dân số năm 2019 là 1.151.154 người, có 7 dân tộc anh, em sinh sống trên địa bàn tỉnh gồm: Kinh, Sán Dìu, Nùng, Dao, Cao Lan, Mường. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính: 2 thành phố, 7 huyện; 136 xã, phường, thị trấn. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính: Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh; thành phố Phúc Yên và 7 huyện là Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch và Sông Lô.

1. ĐỊA CHẤT

Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phân bố sáu nhóm đá khác nhau:

- Đá biến chất cao: phân bố ở khu vực bắc Hương Canh, trung tâm các huyện Lập Thạch, Tam Dương, tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc - đông nam, gồm đá gneis giàu plagioclas, biotit, silimanit, đôi chỗ gặp quartzit chứa mica hệ tầng Chiêm Hóa.

- Đá trầm tích lục nguyên màu đỏ: phân bố ở phía đông nam Tam Đảo, giáp Sóc Sơn (Hà Nội), bao gồm cát kết, đá phiến sét màu đỏ nâu, phớt lục, phớt tím xen kẽ với bột kết, đá phiến sét phớt đỏ hệ tầng Nà Khuất.

- Đá trầm tích lục nguyên có chứa than: phân bố thành dải hẹp ở khu vực xã Đạo Trù (Tam Đảo), thành phần gồm cuội kết, cát kết, đá phiến sét, sét than và lớp than đá; phần trên gồm cát kết, bột kết, đá phiến sét màu xám vàng, xám sẫm thuộc hệ tầng Văn Lãng. Các trầm tích Neogen lộ ra ở khu vực tây nam huyện Lập Thạch, dọc rìa tây nam huyện Tam Đảo, nằm kẹp giữa các hệ thống đứt gãy sông Chảy và sông Lô, bao gồm cát kết ở phần dưới chuyển lên bột kết và sét kết màu xám đen.

- Trầm tích bở rời: trầm tích Đệ Tứ phân bố rộng rãi ở phía nam tỉnh, chạy dọc thung lũng sông Hồng, sông Lô, bao gồm cuội, sỏi, cát, sét vàng, sét bột phong hóa laterit màu sắc loang lổ; sét màu xám xanh, xám vàng phong hóa laterit yếu; kaolin, sét xanh, sét đen của hệ tầng Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình.

- Đá phun trào: phân bố ở phần đông bắc tỉnh, chiếm toàn bộ dãy núi Tam Đảo, bao gồm tướng phun trào thực sự: đá ryolit đaxit, ryolit porphyr có ban tinh thạch anh, felspat, plagioclas; tướng á phun trào: xuyên cắt các loại đá phun trào, gồm ryolit porphyr có ban tinh lớn, ít felspat dạng đai mạch nhỏ; tướng phun nổ: các thấu kính từ chứa ít mảnh dăm, bom núi lửa của hệ tầng Tam Đảo. Các loại đá phun trào Tam Đảo chủ yếu là đá ryolit, một số là đaxit.

- Đá magma xâm nhập: thuộc phức hệ sông Chảy, phân bố ở phía tây bắc huyện Lập Thạch, bao gồm đá granodiorit, granit hạt từ vừa đến lớn, granit 2 mica, granit muscovit hạt vừa đến nhỏ, và các mạch aplit, pegmatit. Đặc điểm của các loại đá này là giàu nhôm, giàu kiềm. Các loại đá magma xâm nhập nằm trong hệ thống đứt gãy phương tây bắc - đông nam, gồm hệ thống đứt gãy sông Chảy và sông Lô.

2. ĐỊA HÌNH

Phía bắc Vĩnh Phúc có dãy núi Tam Đảo kéo dài từ xã Đạo Trù (Tam Đảo) - điểm cực bắc của tỉnh đến xã Ngọc Thanh (Phúc Yên) - điểm cực đông của tỉnh với chiều dài trên 30 km, phía tây nam được bao bọc bởi sông Hồng và sông Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và chia tỉnh thành ba vùng có địa hình đặc trưng: đồng bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình.

- Địa hình đồng bằng: gồm 76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 46.800 ha. Vùng đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới. Vùng phù sa cũ chủ yếu do phù sa của các hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi đắp nên, diện tích vùng này khá rộng, gồm phía bắc các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam các huyện Tam Dương, Bình Xuyên, được hình thành cùng thời kỳ hình thành châu thổ sông Hồng (Kỷ Đệ Tứ - Thống Pleitoxen). Vùng phù sa mới dọc theo các con sông thuộc các huyện Sông Lô, Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc phía nam Bình Xuyên, được hình thành vào thời kỳ Đệ Tứ - Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp nên rất màu mỡ, là điều kiện lý tưởng để phát triển kinh tế nông nghiệp thâm canh.

- Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900 ha. Đây là vùng thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu, kết hợp với chăn nuôi gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hóa thực phẩm.

- Địa hình núi thấp và trung bình: có diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm 46,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có nhiều sông suối. Đây là một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh quanh Hà Nội, vì có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích rừng quốc gia là 15.753 ha.

3. KHÍ HẬU

Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đặc điểm khí hậu của vùng trung du miền núi phía Bắc.

- Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm là 23,5 – 250C, nhiệt độ cao nhất là 38,50C, thấp nhất là 20C. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên có sự chênh lệch khá lớn về nhiệt độ giữa vùng núi và đồng bằng. Vùng Tam Đảo, có độ cao 1.000 m so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình năm là 18,40C.

- Lượng mưa: lượng mưa trung bình năm đạt 1.400 - 1.600mm, trong đó, lượng mưa bình quân cả năm của vùng đồng bằng và trung du đo được tại trạm Vĩnh Yên là 1.323,8mm, vùng núi tại trạm Tam Đảo là 2.140 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô (từ tháng 11 năm nay đến tháng 4 năm sau) chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.

- Số giờ nắng: tổng số giờ nắng bình quân trong năm là 1.400 - 1.800 giờ. Tháng có nhiều giờ nắng nhất là tháng 6 và tháng 7; tháng có ít giờ nắng nhất là tháng 3.

- Chế độ gió: trong năm có hai loại gió chính là gió đông nam, thổi từ tháng 4 đến tháng 9; và gió đông bắc, thổi từ tháng 10 năm nay đến tháng 3 năm sau.

- Độ ẩm không khí: độ ẩm bình quân cả năm là 83%. Nhìn chung, độ ẩm các tháng trong năm không chênh lệch nhiều giữa vùng núi với vùng trung du và đồng bằng.

- Lượng bốc hơi: lượng bốc hơi bình quân trong năm là 1.040 mm. Từ tháng 4 đến tháng 9, lượng bốc hơi bình quân trong một tháng là 107,58 mm; từ tháng 10 năm nay đến tháng 3 năm sau là 71,72 mm.

4. THỦY VĂN

4.1. Thủy văn mặt

Vĩnh Phúc có bốn con sông chính chảy qua, gồm: sông Hồng, sông Lô, sông Đáy và sông Cà Lồ. Lượng nước hằng năm của các sông này rất lớn, có thể cung cấp nước tưới cho 38.200 ha đất canh tác nông nghiệp, được chia làm hai hệ thống sông chính: hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Cà Lồ.

Hệ thống sông Hồng: gồm sông Hồng với hai nhánh lớn là sông Đà ở bờ bên phải và sông Lô ở bờ bên trái, cùng với hai nhánh của sông Lô là sông Chảy ở Tuyên Quang và sông Đáy ở Vĩnh Phúc.

- Sông Hồng: chảy qua địa phận Vĩnh Phúc từ ngã ba Bạch Hạc đến hết xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, dài 30 km. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong cả năm là 3.860 m3/s, lớn gấp bốn lần lưu lượng sông Thao, gấp ba lần lưu lượng sông Lô và gấp đôi lưu lượng sông Đà. Lưu lượng dòng chảy thấp nhất vào mùa khô là 1.870 m3/s. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong mùa mưa lũ là 8.000 m3/s, lưu lượng lớn nhất là 18.000 m3/s. Mực nước trung bình là 9,57 m, hằng năm lên xuống thất thường, nhất là về mùa mưa với những cơn lũ đột ngột, nước dâng lên nhanh chóng, có khi tới 3 m trong 24 giờ. Mực nước đỉnh lũ thường cao hơn mực nước mùa kiệt trên dưới 9 m (trong cơn lũ lịch sử năm 1971, dao động tới 11,68 m). Mùa khô, hệ thống sông Hồng là nguồn cấp nước chính cho các trạm bơm vùng đồng ruộng xung quanh, với hàm lượng phù sa cao, tối đa có thể lên tới 14 kg/m3, lượng phù sa lớn (mỗi năm có thể lên tới 130 triệu tấn), chất lượng phù sa tốt, nước sông chứa nhiều chất khoáng. Chính lượng phù sa dồi dào từ sông Hồng đã bồi đắp cho Vĩnh Phúc một dải đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Hiện nay, sông vẫn tiếp tục bồi phù sa cho đồng bãi ven bờ và cho cả ruộng trong đê qua những con ngòi thông ra sông.

- Sông Lô: chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Yên (huyện Sông Lô) qua xã Việt Xuân (huyện Vĩnh Tường) đến ngã ba Bạch Hạc thì đổ vào sông Hồng, có chiều dài là 34 km. Lưu lượng dòng chảy bình quân năm 1996 là 1.213 m3/s, về mùa mưa lên tới 3.230 m3/s, cao nhất năm 1996 là 6.560 m3/s; biên độ dao động mực nước trung bình là 6 m (năm 1971 chênh nhau tới 11,7 m). Hàm lượng phù sa của sông Lô ít hơn sông Hồng. Vào mùa mưa lũ, lượng phù sa là 2.310 kg/m3, mùa cạn, nước sông trong xanh, hầu như không mang phù sa. Sông Lô còn tiếp thêm nước cho hệ thống thủy lợi Liễn Sơn qua trạm bơm Bạch Hạc.

- Sông Đáy: dài 41,5 km, chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn (huyện Lập Thạch) ở bờ phải và xã Yên Dương (huyện Tam Đảo) ở bờ trái, chảy giữa huyện Lập Thạch và hai huyện Tam Đảo, Vĩnh Tường, rồi đổ vào sông Lô, giữa xã Sơn Đông (huyện Lập Thạch) và xã Việt Xuân (huyện Vĩnh Tường). Sông Đáy có lưu lượng bình quân là 23 m3/s; lưu lượng cao nhất là 833 m3/s; mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ còn 4 m3/s. Sông Đáy cũng có lưu lượng phù sa như sông Lô (2,44 kg/m3) nhưng vai trò quan trọng nhất của sông Đáy là cung cấp nước cho hệ thống thủy nông Liễn Sơn dài 175 km, tưới cho 14.000 ha ruộng của các huyện Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Mê Linh.

- Sông Cà Lồ: là một phân lưu của sông Hồng. Nó tách ra khỏi sông Hồng ở xã Trung Hà (huyện Yên Lạc), dài 86 km theo hướng tây nam - đông bắc, giữa hai huyện Bình Xuyên và Mê Linh, vòng quanh thị xã Phúc Yên rồi theo đường vòng cung rộng phía nam hai huyện Kim Anh và Đa Phúc cũ, đổ vào sông Cầu ở thôn Lương Phúc, xã Việt Long (nay thuộc huyện Sóc Sơn - Hà Nội). Nguồn nước sông Cà Lồ ngày nay chủ yếu là nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam Đảo, núi Sóc Sơn, lưu lượng bình quân chỉ 30 m3/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3/s. Tác dụng chính của sông là tiêu úng vào mùa mưa lũ. Riêng khúc sông đầu nguồn cũ từ Vạn Yên đến sông Cánh đã được đắp chặn lại ở gần thôn Đại Lợi (Phúc Yên), dài gần 20 km, biến thành một hồ chứa nước lớn để tưới ruộng và nuôi cá.

- Sông Phan: bắt nguồn từ núi Tam Đảo, thuộc địa phận các xã Hoàng Hoa (huyện Tam Dương), Tam Quan, Hợp Châu (huyện Tam Đảo), chảy qua các xã Duy Phiên, Hoàng Lâu (huyện Tam Dương), Kim Xá, Yên Lập, Lũng Hòa, Thổ Tang (huyện Vĩnh Tường) theo hướng đông bắc - tây nam; vòng sang hướng đông nam qua các xã Vũ Di, Vân Xuân (huyện Vĩnh Tường) rồi theo hướng tây nam - đông bắc qua các xã Tề Lỗ, Đồng Văn, Đồng Cương (huyện Yên Lạc) đổ vào đầm Vạc (thành phố Vĩnh Yên), qua xã Quất Lưu chảy về Hương Canh (huyện Bình Xuyên), qua xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên), nhập với sông Bá Hạ rồi đổ vào sông Cà Lồ ở địa phận xã Nam Viêm (thành phố Phúc Yên).

- Sông Cầu Bòn: bắt nguồn từ Thác Bạc trên núi Tam Đảo, đổ xuống làng Hà, xã Hồ Sơn hợp với suối Xạ Hương, suối Bàn Long thuộc xã Minh Quang (huyện Tam Đảo), chảy từ phía bắc xuống phía nam qua các xã Gia Khánh, Hương Sơn, Tam Hợp rồi đổ vào sông Cánh, xã Tam Hợp, đều thuộc huyện Bình Xuyên. Sông Phan và sông Cầu Bòn hình thành nên một đường vòng cung, hai đầu nối vào sườn Tam Đảo. Vào mùa khô, mực nước hai con sông này rất thấp. Nhưng về mùa mưa, nước từ Tam Đảo trút xuống, không tiêu kịp vào sông Cà Lồ, thường ứ lại ở Đầm Vạc và làm ngập úng cả một vùng ruộng giữa hai huyện Yên Lạc, Bình Xuyên.

- Sông Bá Hạ: bắt nguồn từ suối Nhảy Nhót giữa xã Trung Mỹ (huyện Bình Xuyên) và xã Ngọc Thanh (thị xã Phúc Yên), chảy giữa xã Bá Hiến (huyện Bình Xuyên) và xã Cao Minh (thị xã Phúc Yên) đến hết địa phận xã Bá Hiến, đầu xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên), nhập với sông Cánh, chảy về sông Cà Lồ.

- Suối Cheo Meo: bắt nguồn từ xã Minh Trí (Sóc Sơn - Hà Nội), dài 11,5 km, đổ vào sông Cà Lồ ở xã Nam Viêm (Phúc Yên). Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có nhiều đầm, hồ lớn, trong đó có tới 94 hồ lớn nhỏ với khả năng cung cấp nước tưới cho 33.500 ha đất canh tác nông nghiệp. Các đầm, hồ thiên tạo là: đầm Vạc (Vĩnh Yên), đầm Rưng, vực Xanh, vực Quảng Cư, đầm Kiên Cương (Vĩnh Tường), đầm Tam Hồng, đầm Cốc Lâm (Yên Lạc), hồ Đá Ngang, hồ Khuôn, hồ Suối Sải (Sông Lô), đầm Riệu (Phúc Yên)... Các đầm, hồ nhân tạo gồm: hồ Đại Lải (Phúc Yên), hồ Xạ Hương (Tam Đảo), hồ Làng Hà (Tam Đảo), hồ Vân Trục (Lập Thạch), hồ Bò Lạc (Sông Lô)...

4.2. Thủy văn ngầm

Đặc điểm của các tầng chứa nước trong lãnh thổ Vĩnh Phúc:

- Tầng chứa nước Proterozoi: được cấu tạo bởi các loại đá biến chất cao, chủ yếu là đá phiến gơnai, quaczit, amphibolit. Nước ở tầng này trong, chất lượng tốt, lưu lượng nhỏ. Tuy nhiên, ở những đới phá hủy, đập vỡ thì lưu lượng nước có thể đạt tới trên 5 lít/s. Tầng phá hủy của nó có nước chất lượng tốt, có thể làm nước giải khát.

- Tầng chứa nước Mezozoi: được cấu tạo bởi các loại đá phun trào Triat giữa và muộn cùng các thành tạo chứa than của hệ tầng Văn Lãng. Chất lượng nước không đều, có nơi bị nhiễm sắt, lưu lượng nước nhỏ.

- Tầng chứa nước Kainozoi: đây là tầng chứa nước quan trọng. Tuy nhiên, do vỏ phong hóa mỏng nên lưu lượng nước không lớn, đa phần chỉ sâu 4 - 5 m đã gặp đá gốc. Tầng chứa nước đứt gãy trong các đới phá hủy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.

- Tầng chứa nước đứt gãy: được hình thành trên các đứt gãy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.

Nhìn chung, nguồn nước ngầm phân bố không đều, chủ yếu ở vùng đồng bằng phía nam của tỉnh. Chất lượng nước ngầm khá tốt; tuy nhiên, tại một số nơi có nhiều nhà máy như các khu công nghiệp thì nước ngầm có dấu hiệu bị ô nhiễm, một vài chỉ tiêu như sắt, mangan cao cần phải xử lý.

Tại Vĩnh Phúc, trữ lượng nước ngầm tự nhiên gồm trữ lượng động tự nhiên và trữ lượng tĩnh tự nhiên. Trong đó, trữ lượngtĩnh tự nhiên (thể tích nước có trong tầng chứa nước) bao gồm: trữ lượng tĩnh phần đàn hồi và trữ lượng tĩnh phần động lực. Cho đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc chỉ có thể tính trữ lượng tĩnh đàn hồi cho tầng Pleistocen. Theo kết quả tìm kiếm, thăm dò và đánh giá nước dưới đất ở khu vực đồng bằng tỉnh Vĩnh Phúc, trữ lượng tĩnh đàn hồi tính được khoảng 111,2 triệu m3.

Trữ lượng động tự nhiên là lượng nước chảy qua mặt cắt của tầng chứa nước trong một đơn vị thời gian. Ở Vĩnh Phúc, có thể phân ra hai vùng để tính trữ lượng động tự nhiên như sau:

Vùng đồi núi: chủ yếu phân bố các tầng chứa nước khe nứt. Do địa hình phân cắt mạnh bởi các hệ thống sông suối và mạng lưới xâm thực địa phương, nước dưới đất trao đổi mạnh, thoát hoàn toàn ra sông, suối.

Vùng đồng bằng: tại đây tồn tại một vài tầng chứa nước, song tầng chứa nước Pleistocen là tầng giàu nước và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế.

Trên diện tích 770 km2 vùng đồi núi, các tầng chứa nước khe nứt Vĩnh Phúc có trữ lượng động tự nhiên là 137.356 m3/ngày.

Trên diện tích 600 km2 vùng đồng bằng, tầng chứa nước trầm tích có trữ lượng động tự nhiên là 210.470 m3/ngày.

Trữ lượng động tự nhiên nước dưới đất toàn tỉnh là 347.826 m3/ngày.

Cũng theo tài liệu cơ sở dữ liệu tài nguyên nước của tỉnh Vĩnh Phúc, trữ lượng tự nhiên (gồm trữ lượng động và trữ lượng tĩnh) ở các huyện đồng bằng tỉnh Vĩnh Phúc là 85,8 triệu m3. Trữ lượng động tự nhiên ở các huyện miền núi của tỉnh là 238.282 m3/ngày đêm. Trữ lượng động tự nhiên ở các huyện đồng bằng là 276.910 m3/ngày đêm.

Từ lâu, nước dưới đất đã được khai thác để phục vụ ăn uống và sinh hoạt trong tỉnh. Hiện nay, 80% số hộ dân đang sử dụng nguồn nước ngầm làm nước sinh hoạt, ăn uống. Nước được khai thác từ các giếng khoan, giếng đào.

Nước ngầm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đang được khai thác dưới 2 hệ thống chính:

- Hệ thống khai thác tập trung: là các công trình cấp nước tập trung cho vài trăm đến vài nghìn hộ sử dụng bằng khai thác nước dưới đất qua xử lý lắng lọc và được bơm đến từng hộ. Việc khai thác này do các nhà máy của Công ty Cấp thoát nước cấp cho dân cư thành phố, các thị xã, thị trấn và công trình khai thác nước tập trung của một xã. Hiện nay, Vĩnh Phúc có 2 nhà máy nước lớn là: nhà máy nước Vĩnh Yên (do Công ty Cấp thoát nước môi trường số I Vĩnh Phúc quản lý), công suất cấp nước 16.000 m3/ngày đêm với 17 giếng khoan công suất 12.000 m3/ngày đêm với 5 giếng khoan, trong đó, nước cấp cho sản xuất công nghiệp là 3.174 m3/ngày đêm.

 Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 35 công trình cấp nước tập trung, trong đó có 14 công trình đang hoạt động. Các công trình tiêu biểu có thể kể đến như: công trình cấp nước sạch tại Thanh Lãng, Hương Canh (Bình Xuyên); Sơn Đông, Vân Trục, Quang Sơn (Lập Thạch); Quang Yên (Sông Lô); Bồ Lý, Yên Dương, Đạo Trù (Tam Đảo); thị trấn Yên Lạc (Yên Lạc); hệ thống cấp nước sạch xã Nam Viêm và dự án cải tạo, mở rộng hệ thống cấp nước tại phường Phúc Thắng (Phúc Yên).

- Hệ thống khai thác nhỏ: là phương thức khai thác nước bằng các giếng đào, giếng khoan lấy bơm tay, bơm điện phục vụ cho từng hộ riêng lẻ hoặc nhóm hộ. Hầu như toàn bộ các gia đình ở khu vực nông thôn chưa được cung cấp nước từ hệ thống khai thác tập trung mà đã tự động khoan, đào các giếng để lấy nước cho sinh hoạt hằng ngày.

Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan, tổ chức cũng sử dụng phương thức khai thác này để phục vụ sinh hoạt và sản xuất kinh doanh. Theo số liệu thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường Vĩnh Phúc, lượng nước khai thác tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh hiện nay khoảng 9.405 m3/ngày đêm, trong đó tập trung nhiều tại huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường.

Chất lượng nước ngầm ở các khu vực trên địa bàn tỉnh có sự khác nhau, cụ thể:

- Tại các khu đô thị và khu công nghiệp (thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên): chỉ số pH, Cl, Cu, Zn, Mn, Fe tại khu vực đô thị tỉnh Vĩnh Phúc đều ở trong giới hạn cho phép hoặc dưới giới hạn cho phép rất nhiều. Điều đó chứng tỏ, công tác quản lý môi trường tại khu vực đô thị của tỉnh đang ngày càng tốt lên.

- Tại khu vực nông thôn và làng nghề (huyện Vĩnh Tường, huyện Yên Lạc, huyện Tam Dương): nước ngầm có dấu hiệu bị ô nhiễm và có xu hướng tăng dần theo thời gian.

Một số chỉ tiêu ô nhiễm năm 2004 vượt quá Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) như chỉ số Cu của huyện Yên Lạc; chỉ số Mn của huyện Yên Lạc, Tam Dương; chỉ số pH của huyện Tam Dương. Tuy nhiên, các chỉ số này đã có xu hướng giảm về mức cho phép trong năm 2006.

Bên cạnh đó, nhiều chỉ số năm 2004 ở mức cho phép nhưng đến năm 2006 lại thay đổi theo hướng tiêu cực, vượt gấp nhiều lần QCVN như chỉ số Zn, Cu của Tam Dương.

Điều đáng tiếc là chất Cianua (CN) rất độc hại đã được phát hiện ở cả 3 huyện vào năm 2004. May mắn là tới năm 2006, hàm lượng chất này trong nước ngầm đã giảm đáng kể.

Chất lượng nước ngầm tại Vĩnh Tường, Yên Lạc có tính axit, chỉ số pH thấp hơn QCVN 09:2008/BTNMT.

Mặc dù theo Báo cáo Quan trắc hiện trạng môi trường hàng năm của tỉnh Vĩnh Phúc, chất lượng nước ngầm của tỉnh hiện nay vẫn ở mức sử dụng tốt và chưa bị ô nhiễm nặng nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh vẫn cần phải đo lường, kiểm tra chất lượng nước thường xuyên và có hướng sử dụng, quản lý nguồn nước ngầm một cách thích hợp.

Tại các đô thị lớn như thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên, các vùng phát triển công nghiệp như Bình Xuyên, Tam Dương, nước ngầm có thể bị tác động mạnh do ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt và công nghiệp trong khu vực nếu không có biện pháp kiểm soát hiệu quả.

Tại khu vực nông thôn, do điều kiện cấp nước tập trung chưa phát triển nên chất lượng nước ngầm sẽ bị tác động mạnh do gia tăng nhu cầu sử dụng nước dẫn tới việc phát triển mạnh các giếng khoan quy mô nhỏ. Việc khoan giếng không được kiểm soát và quản lý, các giếng khoan không có nước nếu không được trám lấp đảm bảo kỹ thuật sẽ dẫn tới nguy cơ nhiễm bẩn nguồn nước ngầm từ các chất thải bề mặt rất cao. Đặc biệt là tại các khu làng nghề tập trung và các vùng phát triển chăn nuôi quy mô lớn.

Nước ngầm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc được phủ một tầng phong hóa bở rời, nguồn cấp vật liệu cho nước ngầm chủ yếu từ nước mặt. Do vậy, các nguồn thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) gây ô nhiễm cho nước mặt như đã nói trên chính là các nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, đặc biệt là tại các vùng nông thôn chủ yếu dùng nước ngầm ở tầng nông.

5. THỔ NHƯỠNG

Do đặc điểm địa hình, khí hậu, thủy văn như vậy nên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã hình thành các nhóm đất khác nhau, bao gồm:

- Nhóm đất phù sa: diện tích 29.830,15 ha, chiếm 21,75% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh, được phân bố ở tất cả các huyện, chủ yếu là Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên. Diện tích đất phù sa trên địa hình thấp trũng bị ngập nước quanh năm, sau một thời gian dài tích sét sẽ diễn ra quá trình khử mạnh mẽ trong điều kiện yếm khí, hình thành tầng đất glây điển hình.

- Nhóm đất cát: có thành phần cơ giới thô, hàm lượng hạt cát trên 70% ở hầu hết các tầng đất. Nhóm này được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ, lắng đọng các sản phẩm thô bị rửa trôi từ vùng đồi núi.

- Nhóm đất loang lổ: có một tầng chứa không dưới 25% đá ong non và dày trên 15 cm, ở độ sâu từ 0 - 50 cm hoặc đến độ sâu 125 cm khi nằm dưới một tầng bạc màu. Đất loang lổ có diện tích 11.887,3 ha, chiếm 8,67% diện tích đất tự nhiên.

- Nhóm đất xám: gồm đất phù sa cũ có sản phẩm feralitic, đất dốc tụ ven đồi. Đất xám có diện tích 42.435,27 ha, chiếm 30,9% diện tích đất tự nhiên.

- Nhóm đất tầng mỏng: thuộc tầng đất đồi, có độ dày tầng đất nhỏ hơn 30 cm, bên dưới là đá cứng liên tục hoặc tầng cứng rắn hoặc có tỷ lệ đất mịn trên 10% về trọng lượng trong tầng đất có độ sâu từ 0 - 75 cm. Đất này có diện tích 1.264,78 ha.

6. TÀI NGUYÊN RỪNG

Theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm Vĩnh Phúc, tính đến ngày 31-12-2011, diện tích có rừng toàn tỉnh là 28.312,7 ha, độ che phủ rừng đạt 22,4%.

Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 9.358,8 ha, chiếm 32,81%, tập trung chủ yếu ở huyện Tam Đảo với diện tích 6.978,3 ha, chiếm 74,49% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; đây cũng là nơi có Vườn Quốc gia Tam Đảo. Hiện tại, phần lớn rừng tự nhiên do Ban Quản lý rừng của tỉnh giám sát, kiểm tra và quản lý.

Bên cạnh đó, tỉnh còn có 18.953,9 ha diện tích rừng trồng, chiếm 67%, trong đó, diện tích rừng mới trồng là 977,7 ha, chiếm 3,43%. Tam Đảo cũng là huyện có diện tích rừng trồng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong toàn tỉnh, đạt 28,34%. Tiếp đến là huyện Lập Thạch (tương đương 20,33%), thị xã Phúc Yên (19,01%), huyện Sông Lô (16,78%). Thấp nhất là thành phố Vĩnh Yên, chỉ có 153,3 ha, chiếm 0,007%. Phần lớn rừng trồng do hộ gia đình sở hữu và quản lý, với diện tích 9.161,8 ha (47,76%). Ban Quản lý rừng Vĩnh Phúc quản lý 3.899,2 ha (20,33%). Số còn lại do các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị vũ trang hoặc các tổ chức kinh tế khác khai thác và sử dụng.

Vĩnh Phúc có các kiểu rừng sau:

- Rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp: phân bố ở độ cao 700 m. Loại rừng này chiếm phần lớn dãy Tam Đảo với những loài cây có giá trị kinh tế cao như chò chỉ (choera chinensis), giổi (michelia Ital), re (cinnamomum ital)... Quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng, tán kín với những loài cây lá rộng thường xanh hợp thành. Kiểu rừng này đang bị tàn phá nặng nề.

- Rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: phân bố ở độ cao 800 m trở lên (chỉ có ở dãy Tam Đảo). Quần hệ thực vật là các loài họ dầu (dipterocarpaceae), họ re (lauraceae), dẻ (fagceae), họ chè (theaceae), họ mộc lan (magnoliaceae), họ sau sau (hamamelidaceae). Ngoài ra, ở độ cao trên 1.000 m xuất hiện một số loài thuộc ngành hạt trần như thông (dacrycarpus), pơmu (fokienia hodginsii), thông tre (podocarpus neriifolius), thông yến tử (podorcarpus pilgeri), kim giao (nageia fleuryi)...

- Rừng lùn trên đỉnh núi: là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình, được hình thành trên các đỉnh dông dốc, hay các đỉnh núi cao đất xấu, nhiều nắng gió, mây mù. Vì vậy, cây cối ở đây thường thấp, bé và phát triển chậm.

- Rừng tre nứa: mọc xen kẽ trong các kiểu rừng khác. Các loại tiêu biểu là vầu, sặt gai ở độ cao trên 800 m; giang ở độ cao 500 - 800 m; nứa ở độ cao dưới 500 m.

- Rừng phục hồi sau nương rẫy: kiểu rừng này thường có ở vùng đệm của Vườn Quốc gia Tam Đảo.

- Rừng trồng: gồm các loại rừng thông, rừng bạch đàn, rừng keo và rừng lá rộng, được trồng ở độ cao 200 - 600 m. Rừng trồng được bao phủ với diện tích khá lớn ở phía tây bắc của huyện Lập Thạch, Sông Lô. Ở khu vực thung lũng, sông suối và phần phía nam tỉnh còn trồng cây lương thực, rau màu. Ngoài ra, trong vùng còn có các kiểu trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh sau khai thác.

7. THỰC VẬT VÀ ĐỘNG VẬT

7.1. Thực vật

Thảm thực vật ở Vĩnh Phúc thể hiện rõ trong nền cảnh chung của rừng nhiệt đới gió mùa. Đặc biệt Vĩnh Phúc còn có Vườn Quốc gia Tam Đảo; gần đây, qua khảo sát bước đầu, các nhà thực vật học đã thống kê được trong Vườn có 1.436 loài, thuộc 741 chi trong 219 họ của 6 ngành thực vật. Trong đó có 58 loài mang gen quý hiếm và 68 loài đặc hữu có tên trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới1. Dựa vào sinh cảnh phân bố, có thể chia hệ thực vật ở Tam Đảo thành các loại: rảng cỏ, cây bụi, các loài cây gỗ trên núi đất và núi đá. Theo giá trị sử dụng, có thể chia hệ thực vật này thành các nhóm: cây cho tinh dầu, cây làm rau ăn, cây làm cảnh, cây cho gỗ, cây dược liệu, cây cho tinh bột, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm cây cho gỗ và cây dược liệu. Ở Tam Đảo còn có nhiều loài thực vật lần đầu tiên được thu thập và mô tả ở Việt Nam.

7.2. Động vật

Hệ động vật ở Tam Đảo rất phong phú về thành phần loài, với khoảng 1.141 loài, thuộc 150 họ của 39 bộ. Trong đó, 64 loài có giá trị khoa học cần bảo tồn, 16 loài đặc hữu, 18 loài có tên trong sách đỏ thế giới và 8 loài cấm buôn bán.

Trong đó, lớp lưỡng cư có 19 loài, đặc biệt, loài cá cóc Tam Đảo thuộc những loài động vật quý hiếm được đưa vào sách đỏ. Lớp bò sát có 46 loài, trong đó tắc kè, kỳ đà, thằn lằn là những loài có số lượng lớn. Lớp chim nhiều hơn cả, có tới 158 loài, trong đó có nhiều loại quý như gà lôi trắng, gà tiền. Lớp thú có 58 loài; các loài lớn như gấu, hổ, báo...; các loài nhỏ như cầy, sóc, chuột, hươu, hoẵng...; một số có giá trị khoa học cao như cheo cheo, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch...

Trong các loài động vật ở rừng Tam Đảo, có 47 loài được xem là quý hiếm, trong đó có loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt. Vườn Quốc gia Tam Đảo là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có giá trị to lớn trong bảo vệ môi trường, điều tiết và cung cấp nước, phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch, nghỉ dưỡng, cung cấp lâm sản, dược liệu. Với độ che phủ rừng chiếm 90% diện tích, có thể coi Vườn Quốc gia Tam Đảo là kho dự trữ các nguồn gen động, thực vật quý hiếm của nước ta, và là điểm du lịch hấp dẫn.

8. KHOÁNG SẢN

Có thể phân loại khoáng sản ở Vĩnh Phúc thành các nhóm sau:

8.1. Nhóm khoáng sản cháy

- Than antraxit: có ở xã Đạo Trù (Tam Đảo), xác định chiều dài vỉa 20 m, bề dày vỉa 0,5 - 0,8 m, trữ lượng khoảng 1.000 tấn, có nhiệt lượng 7.000 - 8.000 kcal.

- Than nâu: địa tầng chứa than nâu ở các xã Bạch Lưu, Đồng Thịnh (Sông Lô). Vỉa than Bạch Lưu dày 0,8 m, dài 10 m, chưa được thăm dò và đánh giá. Vỉa than Đồng Thịnh dày 0,4 - 0,5 m, nằm thoải dưới chiều sâu 5 - 7 m, phủ trên là sét kết và bột kết, có trữ lượng khoảng vài ngàn tấn. Than nâu có nhiệt lượng 6.000 - 8.000 kcal.

- Than bùn: Vĩnh Phúc có nhiều điểm than bùn, trong đó đáng kể là hai vùng: xã Văn Quán (Lập Thạch) và các xã Hoàng Đan, Hoàng Lâu (Tam Dương).

Than bùn Văn Quán có trữ lượng ước khoảng hàng trăm ngàn mét khối, có thể sử dụng làm chất đốt và phân bón.

Than bùn Hoàng Lâu phổ biến trên hàng chục hecta ở vùng đầm lầy và đầm chiêm trũng. Chiều dày lớp than từ 1 - 2 m, có chỗ tới 3 m, dưới lớp phủ 0,5 - 1 m, trữ lượng ước khoảng 500.000 m3. Địa tầng chứa than là cát sét và bột của trầm tích Đệ Tứ hệ tầng Hà Nội, than Humit chưa phân hủy hết cây cối.

8.2. Nhóm khoáng sản kim loại

- Barit: chủ yếu gặp dưới dạng tảng lăn, có nguồn gốc nhiệt dịch, đi với chì, kẽm, gồm ba dải mạch ở Đạo Trù (Tam Đảo).

Bình luận (0)
Mai Hương Trần
Xem chi tiết
Thảo Đỗ
Xem chi tiết
✰๖ۣۜNσNαмε๖ۣۜ✰
18 tháng 12 2021 lúc 12:14

tham khảo : câu 1

https://baihoc.net/giai-bai/dieu-kien-tu-nhien-cua-do-co-dai-co-diem-gi-giong-va-khac-so-voi-ai-cap-va-luong-ha

Bình luận (0)
Lysr
18 tháng 12 2021 lúc 12:15

Tham khảo:D

1. So sánh:

Giống nhau:

Ấn Độ và Lưỡng Hà cả 2 đều nằm ở lưu vực các con sông lớn, nhiều phù sa, khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp

Khác nhau: ở vị trí địa lí:

Lưỡng Hà: Nằm trên lưu vực hai con sông Ơ-phơ-rat ( Euphrates) và Ti-go-rơ. -Là vùng bình nguyên

 Ấn Độ :Ba mặt giáp biển, nằm trên trục đường biển từ tây sang đôngPhía bắc được bao bọc bởi dãy núi Hi-ma-lay-aDãy Vin-di-a vùng Trung Ấn chia đia hình Ấn Độ thành hai khu vực: Bắc Ấn và Nam Ấn

Bình luận (0)
Nguyễn Sáng
Xem chi tiết
bang bang
30 tháng 10 2016 lúc 20:01

quá dài oho
 

Bình luận (1)
Vũ Thảo Nguyên
2 tháng 11 2016 lúc 22:24

lòng vòng chả hiểu đâukhocroi mô tả đê

Bình luận (0)
Nguyễn Sáng
3 tháng 11 2016 lúc 15:55

có ai trả lời được ko zậy


 

Bình luận (1)
An Chinh
Xem chi tiết
Lưu Hạ Vy
25 tháng 12 2016 lúc 12:05

Câu 10 :

Sau khi đánh thắng quân Tần , Thục Phán đã :

Xưng là An Dương VươngĐóng đô ở Phong KhêTổ chức lại bộ máy nhà nước
Bình luận (2)
Nanami Luchia
27 tháng 12 2016 lúc 19:39

2.-Quốc gia cổ đại phương Đông:

Gồm Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ

- Quốc gia cổ đại phương Tây:

Gồm Hi Lạp và Rô ma

Bình luận (0)
Nanami Luchia
27 tháng 12 2016 lúc 19:41

7. - Công cụ lao động được cải tiến, loại hình công cụ và đồ gồm đa dạng và phong phú

- Nghề trồng lúa nước ra đời ở các vùng đồng bằng ven sông

Bình luận (2)
Buddy
Xem chi tiết
Time line
6 tháng 9 2023 lúc 11:23

Những điều em biết về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở địa phương:

- Đại lí bán buôn, bán lẻ: hàng tiêu dùng, hàng nông sản, phân bón,....

- Bán hàng trong cửa hàng: hàng tạp hóa, hàng may mặc, văn phòng phẩm,...

- Bán hàng ở siêu thị: siêu thị điện máy, siêu thị hàng tiêu dùng,...

Bình luận (0)