Những câu hỏi liên quan
Baekhyun EXO
Xem chi tiết
Nya arigatou~
5 tháng 11 2016 lúc 19:36

Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt vốn có họ tên thật là Ngô Tuấn, người làng Bắc Biên, xã Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau ông dời nhà về định cư phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội). Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sau vì có công, được triều đình ban thưởng rất trọng hậu, lại còn cho lấy theo họ của Hoàng Đế nhà Lý, đương thời liền nhân đó ghép họ được ban với tên tự mà gọi là Lý Thường Kiệt, mãi rồi thành quen, khiến cho không ít hậu sinh quên mất cả họ lẫn tên thật của ông. Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.
4 danh tướng lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam

Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau này.
Ngày 24/2/1069, vua Lý ThánhTông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành. Quân có 5 vạn, Lý Thường Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong, kiêm chức nguyên soái (theo Việt sử lược).
Tháng 4, Lý Thường Kiệt đưa quân ta đuổi đến biên giới nước Chân Lạp (vùng Phan Thiết) và bắt được vua Chiêm, cầm tù cả thảy 5 vạn quân (theo Việt sử lược và bia thần phổ Lý Thường Kiệt). Vua Chiêm xin dâng đất chuộc tội. Ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình và phía bắc Quảng Trị.
Không chỉ vậy, ông còn là một người tài năng trong đối nội và đối ngoại. Nhân lúc vua Nhân Tông còn bé, nhà Tống âm mưu cướp nước ta. Lý Thường Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm.
Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích, năm 1074, ông mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, cùng coi việc dân và quân trong nước.
Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, chiêu dụ hiền tài, mở khoa thi Minh kinh bác học (năm 1075) để khuyến khích và tuyển nhân tài. Đây là khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Để yên biên giới phía Bắc, các tù trưởng đều được vua gả công chúa cho. Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua. Đồng thời cất quân đi đánh những tù trưởng không chịu thần phục triều đình.
Mặt khác nhà Lý vẫn duy trì chính sách hòa hoãn, chấp nhận triều cống cho nhà Tống để giữ hòa hiếu. Bia thần phổ Lý Thường Kiệt viết: " Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn "
Khi quân Tống lộ rõ âm mưu, ông là người đầu tiên và cũng gần như là duy nhất đưa đại quân đánh sang đất phương Bắc để phá vỡ âm mưu của giặc. Sách Việt điện uy linh chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua : " Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc ".
Với tài thao lược, nghi binh Lý Thường Kiệt đã đưa thủy quân tiến đánh hai thành Khâm châu và Liêm Châu, sau đó tiến vào nội địa công phá thành Ung châu. Trận công thành Ung châu - một thành lớn, phòng bị kỹ của nhà Tống là một trận chiến mang tính kinh điển, thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo.
Không chỉ vậy, trong cuộc Bắc phạt này (từ 27/10/2075 đến 1/3/1076), ông còn tận dụng được sự ủng hộ của dân Tống. Theo bia thần phổ Lý Thường Kiệt: " dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp ".
Sau khi giáng cho địch những đòn nặng nề, Lý Thường Kiệt đã kéo đại quân về nước (tháng 3/1076) chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Dựa trên những phân tích mục tiêu và đường tiến quân của địch, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông cho đắp đê cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giạu, dày đến mấy từng. Thành đất, lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, dài gần trăm cây số. Trước thành đất, lũy tre, có thủy quân đậu thuyền, sẵn sàng tiếp chiến với quân Tống, nếu chúng qua sông.
Phòng tuyến Như Nguyệt là trở thành nơi quyết chiến cuối cùng của quân ta và quân Tống. Khí thế giặc rất mạnh, tưởng chừng như có lúc phòng tuyến Như Nguyệt bị vỡ. Sách Việt điện uy linh viết: Muốn cổ vũ binh sĩ, Lý Thường Kiệt sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Trương Hát ở bờ nam cửa sông Như Nguyệt, đọc vang bài thơ
" Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư ;
Như hà nghịch lộ lai xâm phạm !
Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư. "
Sách chép tiếp: "Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đảm, không đánh đã tan." Bài thơ đã được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.
Sau khi chặn đứng mọi cuộc tấn công của giặc, biết quân Tống đã mệt mỏi, cạn kiệt lương thực, ông bèn "dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ, mà bảo an được tông miếu " (theo bia chùa Linh Xứng). Quân Tống buộc phải nghe theo và rút quân về nước vào năm 1077.
Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần viết: Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử nươc nhà trong thế kỷ thứ XI ; Trong chính trị, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dưới thời trị vì của Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127) ; Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của Nam quốc sơn hà - áng hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.
Trong bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của mình là Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bác học Phan Huy Chú viết về Lý Thường Kiệt như sau :"Ông là người giàu mưu lược lại rất có biệt tài làm tướng súy, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Đế (gồm Lý Thái Tông : 1028-1254 , Lý Thánh Tông : 1054-1072 và Lý Nhân Tông: 1072-1127), phá Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy ".

Chúc bạn học tốt , nếu 1 số tài liệu ko cần thiết cho bài của bạn , bạn có thể lược bớtok

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Thành Đạt
6 tháng 11 2016 lúc 12:49

Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt vốn có họ tên thật là Ngô Tuấn, người làng Bắc Biên, xã Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau ông dời nhà về định cư phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội). Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sau vì có công, được triều đình ban thưởng rất trọng hậu, lại còn cho lấy theo họ của Hoàng Đế nhà Lý, đương thời liền nhân đó ghép họ được ban với tên tự mà gọi là Lý Thường Kiệt, mãi rồi thành quen, khiến cho không ít hậu sinh quên mất cả họ lẫn tên thật của ông. Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.

Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau này.

Ngày 24/2/1069, vua Lý ThánhTông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành. Quân có 5 vạn, Lý Thường Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong, kiêm chức nguyên soái (theo Việt sử lược).

Tháng 4, Lý Thường Kiệt đưa quân ta đuổi đến biên giới nước Chân Lạp (vùng Phan Thiết) và bắt được vua Chiêm, cầm tù cả thảy 5 vạn quân (theo Việt sử lược và bia thần phổ Lý Thường Kiệt). Vua Chiêm xin dâng đất chuộc tội. Ba châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình và phía bắc Quảng Trị.

Không chỉ vậy, ông còn là một người tài năng trong đối nội và đối ngoại. Nhân lúc vua Nhân Tông còn bé, nhà Tống âm mưu cướp nước ta. Lý Thường Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm.

Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích, năm 1074, ông mời Lý Đạo Thành từ Nghệ An trở về, giữ chức Thái phó, Bình chương quân quốc trọng sự, cùng coi việc dân và quân trong nước.

Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, chiêu dụ hiền tài, mở khoa thi Minh kinh bác học (năm 1075) để khuyến khích và tuyển nhân tài. Đây là khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Để yên biên giới phía Bắc, các tù trưởng đều được vua gả công chúa cho. Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua. Đồng thời cất quân đi đánh những tù trưởng không chịu thần phục triều đình.

Mặt khác nhà Lý vẫn duy trì chính sách hòa hoãn, chấp nhận triều cống cho nhà Tống để giữ hòa hiếu. Bia thần phổ Lý Thường Kiệt viết: " Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn "

Khi quân Tống lộ rõ âm mưu, ông là người đầu tiên và cũng gần như là duy nhất đưa đại quân đánh sang đất phương Bắc để phá vỡ âm mưu của giặc. Sách Việt điện uy linh chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua : " Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc ".

Với tài thao lược, nghi binh Lý Thường Kiệt đã đưa thủy quân tiến đánh hai thành Khâm châu và Liêm Châu, sau đó tiến vào nội địa công phá thành Ung châu. Trận công thành Ung châu - một thành lớn, phòng bị kỹ của nhà Tống là một trận chiến mang tính kinh điển, thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo.

Không chỉ vậy, trong cuộc Bắc phạt này (từ 27/10/2075 đến 1/3/1076), ông còn tận dụng được sự ủng hộ của dân Tống. Theo bia thần phổ Lý Thường Kiệt: " dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp ".

Sau khi giáng cho địch những đòn nặng nề, Lý Thường Kiệt đã kéo đại quân về nước (tháng 3/1076) chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Dựa trên những phân tích mục tiêu và đường tiến quân của địch, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông cho đắp đê cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giạu, dày đến mấy từng. Thành đất, lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, dài gần trăm cây số. Trước thành đất, lũy tre, có thủy quân đậu thuyền, sẵn sàng tiếp chiến với quân Tống, nếu chúng qua sông.

Phòng tuyến Như Nguyệt là trở thành nơi quyết chiến cuối cùng của quân ta và quân Tống. Khí thế giặc rất mạnh, tưởng chừng như có lúc phòng tuyến Như Nguyệt bị vỡ. Sách Việt điện uy linh viết: Muốn cổ vũ binh sĩ, Lý Thường Kiệt sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Trương Hát ở bờ nam cửa sông Như Nguyệt, đọc vang bài thơ

" Nam quốc sơn hà Nam đế cư.

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư ;

Như hà nghịch lộ lai xâm phạm !

Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư. "

Sách chép tiếp: "Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đảm, không đánh đã tan." Bài thơ đã được xem là bản tuyên ngôn độc lậpđầu tiên của dân tộc ta.

Sau khi chặn đứng mọi cuộc tấn công của giặc, biết quân Tống đã mệt mỏi, cạn kiệt lương thực, ông bèn "dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ, mà bảo an được tông miếu " (theo bia chùa Linh Xứng). Quân Tống buộc phải nghe theo và rút quân về nước vào năm 1077.

Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần viết: Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử nươc nhà trong thế kỷ thứ XI ; Trong chính trị, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dưới thời trị vì của Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127) ; Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của Nam quốc sơn hà - áng hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.

Trong bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của mình là Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bác học Phan Huy Chú viết về Lý Thường Kiệt như sau :"Ông là người giàu mưu lược lại rất có biệt tài làm tướng súy, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Đế (gồm Lý Thái Tông : 1028-1254 , Lý Thánh Tông : 1054-1072 và Lý Nhân Tông: 1072-1127), phá Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy ".

@@sen phùng

Bình luận (1)
Nguyễn Thị Thủy Tiên
Xem chi tiết
hoàng thị bích ngọc
10 tháng 11 2016 lúc 21:18

cách để phòng thủ ,kháng chiến và kết thúc chiến tranh rất độc đáo nhằm bảo vệ quan hệ bang giao hòa hiếu giữa 2 nc sau chiến tranh

 

Bình luận (0)
bùivân trang
Xem chi tiết
Bùi Như Quỳnh
13 tháng 12 2016 lúc 11:10

Trong khi nhà Tống đang tiến hành xâm lược Đại Việt, Thái úy Lý Thường Kiệt được cử làm chỉ huy.Ông cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm.Ông thực hiện chủ trương độc đáo"tiến công trước để tự vệ",ông thường nói"ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc.Tháng 10-1075,Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thủy bộ đánh vào đất Tống.Trận tập kích này đã đánh 1 đòn phủ đầu ,làm hoang mang quân Tống,dẩy chúng vào thế bị động.Sau khi về nước LTK cho xây dụng phòng tuyến sông Như Nguyệt đói phó với quân xâm lược Tống.Khi quân Tống thua to,LTK chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp thương lượng,giảng hòa. Qua cuộc kháng chiến chống Tống này e thấy Lý Thường Kiệt đúng là 1 tên tuổi đáng được ghi danh vào lịch sử .

Bình luận (3)
Bình Trần Thị
11 tháng 12 2016 lúc 22:33

2.

Người anh hùng dân tộc vĩ đại, danh tướng kiệt xuất Lý Thường Kiệt (1019-1105)

Ông quê ở Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Ông là danh tướng kiệt xuất thời nhà Lý (Thời hậu Lý). Ông không những văn, võ toàn tài mà còn là nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất. Ông đã để lại cho đời những mốc son chói lọi về sự nghiệp quân sự cũng như những cải cách tiến bộ làm cho nước ta thời kỳ đó rất hưng thịnh.

 

Trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, Ông thể hiện thiên tài quân sự để lại dấu ấn bằng những trận đánh để đời làm cho giặc xâm lăng bạt vía kinh hồn, người đời và hậu thế thán phục. Trận đánh cuối năm 1075 và đầu năm 1076 trên biên giới Tống là trận thắng rất độc đáo trên đất giặc, Ông chủ động đánh đòn phủ đầu lên quân giặc làm tiêu hao đáng kể sinh lực địch, tiêu hủy hậu cần, san phẳng thành lũy Tống, dập tắt ý đồ xâm lược nước ta và làm nhụt nhuệ khí bọn cầm quyền phương Bắc; Có được kết quả đó, còn là sự tài giỏi sáng suốt của Ông trong kết hợp với dân vận để cho nhân dân hai nước gần biên giới hiểu rõ chính nghĩa của ta là đánh giặc giữ nước và cứu dân làm cho nhân dân hai nước đồng tính ủng hộ.

Nhưng làm nên tên tuổi người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là chiến thắng giặc Tống tại sông Như Nguyệt (Nay là sông Cầu) đầu năm 1077 là một trong những trận đánh hay nhất trong nghệ thuật quân sự của nước nhà cũng như thế giới và một trong những trận thắng hay nhất trong lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của ông cha ta. Cái hay cái độc đáo ở chổ Ông kết hợp vừa dùng võ đánh giặc, vừa dùng văn (Ngày nay gọi là chiến tranh tâm lý) để đuổi giặc, trong đêm Ông sai người vào Đền thờ Trương Hống, Trương Hát, đọc bài thơ“Sông núi nước Nam” với hồn thơ đanh thép khẳng định chủ quyền Quốc gia thiêng liêng “Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời.), nếu kẻ nào xâm phạm sẽ bị đánh tơi bời “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.”, giặc nghe mất vía cho là bài thơ thần liền buông vũ khí đầu hàng, ta tha chết cho chúng về nước, vừa thắng giặc, vừa đỡ đổ máu cho tướng sỹ, vừa tránh thiệt hại cho dân. Bài thơ bất hủ này cũng là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Ông không những dẹp yên giặc phương Bắc mà còn dẹp yên giặc ở phương Nam, giữ ổn định về chính trị để Đất nước được cường thịnh.

Lý Thường Kiệt là anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thời nhà Lý mà tên tuổi và sự nghiệp vẫn sáng chói mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân ta đã lập đền thờ Ông ở nhiều nơi với lòng thành kính Bậc tiên hiền có công lớn trong dựng nước và giữ nước.

Bình luận (0)
Nguyễn Trần Thành Đạt
11 tháng 12 2016 lúc 23:58

Câu 1: Trả lời

- Thăng Long có địa thế rất thuận lợi về giao thông và phát triển đất nước lâu dài “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, núi sông sau trước, mặt đất rộng bằng phẳng..” khi đất nước đã độc lập, phát triển vững chắc thì Thăng Long đúng là “thượng đô của kinh sư muôn đời”.

- Việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long - Hà Nội) là một quyết định sáng suốt của vua Lý Công Uẩn, tạo đà cho sự phát triển đất nước về sau.

Bình luận (0)
Phạm Lệ Diễm
Xem chi tiết
Dũng Lương
27 tháng 2 2017 lúc 18:40

thế kỉ 11

không biết

thế kỉ 15

Bình luận (0)
lê anh kiệt
27 tháng 2 2017 lúc 18:43

ông giở sách lịch sử ra mà đọc

Bình luận (0)
Hatsune Miku
27 tháng 2 2017 lúc 18:44

Thế kỷ 11

Thế kỷ 12

Thế kỷ 14

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Tuyến
Xem chi tiết
khánh ngọc
24 tháng 1 2016 lúc 15:20

LTK là 1 nhà quân sự tài 3.

trong cuộc kháng chiến chống Tống ô là ng đề ra chiến thuật ''tiên phát chế nhân '' của LTK

tài chỉ huy và mưu lược hơn người

Bình luận (0)
Trần Ngọc Quyên Vân
2 tháng 2 2016 lúc 18:20

"Làm việc thì siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ gian ác, đem minh chứng để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để nỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng đến cả những người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả".

Lý Thường Kiệt là một anh hùng dân tộc bậc nhất của đời Lý mà tên tuổi và sự nghiệp vẫn sáng chói mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc./.

Bình luận (0)
kimcherry
2 tháng 6 2022 lúc 15:18

trl

+ lm vc siêng năng

+ điều khiển dân đôn hậu

+ khoan hòa giúp tăm ng

+ nhân từ yêu mến mn

+ dùng uy vũ trừ gian ác

+ lấy minh chứng giải quyết nguch tụng

+ biết dân lấy sự coi sự no ấm làm đầu, nước coi nông nghiệp gốc

+ tài giỏi mà k khoe khoang

+ nuôi dững nhg ng già nơi thôn dã

 

Bình luận (0)
HentiMan69
Xem chi tiết
HentiMan69
11 tháng 12 2021 lúc 15:16

giúp mình với mình đang gấp

 

Bình luận (0)
Trần Thị Minh Duyên
11 tháng 12 2021 lúc 16:11

- Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương "tiến công trước để tự vệ" (tiên phát chế nhân).

- Ông thường nói: "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc".

Bình luận (0)
Nguyễn Đặng Minh Tú
Xem chi tiết
๖ۣۜHả๖ۣۜI
8 tháng 12 2021 lúc 15:37

C

Bình luận (0)
Thư Phan
8 tháng 12 2021 lúc 15:37

C

Bình luận (0)
nguyễn thế hùng
8 tháng 12 2021 lúc 15:38

C

Bình luận (0)
Phan minh nguyên
Xem chi tiết
๖ۣۜHả๖ۣۜI
15 tháng 11 2021 lúc 8:54

Không muốn chiến tranh làm tổn thất nhân dân và muốn quan hệ 2 nước tốt

Bình luận (0)
ツhuy❤hoàng♚
15 tháng 11 2021 lúc 8:55

tham khảo

Vì nhân dân ta yêu hòa bình - Lý Thường Kiệt là một người suy nghĩ rất sáng suốt, biết lo xa: nếu đánh tiếp, thì nhân dân ta sẽ bị thiệt hại nặng nề về kinh tế và chưa chắc gì đã thắng được quân Tống - Không những giữ được độc lập mà còn làm cho các nước lân cận phải nể phục - Giữ vững quan hệ bình thường giữa hai nước sau chiến tranh - Không làm mất danh dự của nước lớn. - Giữ vững nền hòa bình lâu dài cho dân tộc. - Thể hiện sự khéo léo và mềm dẻo về chính sách ngoại giao của Lý Thường Kiệt vì chúng ta không muốn nhà Tống mang quân sang xâm lược nước ta lần nào nữa và muốn bảo đảm hòa bình lâu dài và hữu nghị giữa hai nước nên Lý Thường Kiệt đã chủ động giảng hòa.

 
Bình luận (0)
Ngo Mai Phong
15 tháng 11 2021 lúc 9:18

tham khảo

Lý Thường Kiệt chủ trương giảng hòa là vì: – Muốn kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tranh vì chiến tranh kéo dài sẽ gây nhều đau thương và mất mát cho nhân dân 2 nước. – Thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc Đại Việt. – Muốn xác lập lại mối quan hệ hòa hiếu giữa 2 nước Việt-Tống để nhân dân sống trong thái bình.

Bình luận (0)
Bùi Như Quỳnh
Xem chi tiết
sky issac
12 tháng 12 2016 lúc 21:10

trong sách đó bạn

 

Bình luận (0)
Bùi Như Quỳnh
13 tháng 12 2016 lúc 10:23

ở đâu mới được chứ

 

Bình luận (0)