e. Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du có gì đặc sắc?
Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” có gì đặc sắc?
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” có gì đặc sắc?
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Cho đoạn thơ sau:
Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du có gì đặc sắc?
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
+ Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân.
– Những chi tiết nào gợi lên đặc điểm riêng của mùa xuân? (Chú ý những đường nét, hình ảnh, màu sắc, khí trời, cảnh vật.)
– Em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ và bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du khi gợi tả mùa xuân?
Bốn câu thơ đầu vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên:
+ Hình ảnh chim én đưa thoi giữa trời xuân trong sáng
+ Cỏ xanh non tới chân trời, điểm xuyết hoa lê trắng
+ Không gian mùa xuân khoáng đạt, rộng rãi
- Màu sắc có sư hài hòa gợi lên vẻ tinh khôi, mới mẻ, tràn đầy sức sống của mùa xuân
- Bút pháp ước lệ tượng trưng gợi không gian mùa xuân, tác giả còn dùng nhiều từ ngữ gợi hình ảnh, cái hồn cảnh vật
Miêu tả sắc đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật gì ?
bút phát ước lệ tượng trưng bạn nhé
Phân tích biện pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.
- Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
- Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.
- Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.
Phân tích biện pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả Nguyễn du trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích trên bằng đoạn văn TPH 12 câu có sử dụng phép thế và câu ghép (gạch. Chân chú thích
nhận xét tài năng của Nguyễn Du khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình(giúp mình mai nộp rui)
Tham khảo:
Nhắc đến tài năng của đại thi hào Nguyễn Du, mỗi người đã từng đọc truyện Kiều đều không thể không khâm phục tài năng của ông với những nét riêng truyền thống và cá tính sáng tạo trong lối viết đậm chất trữ tình. Những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến. Dưới ngòi bút của ông, những bức tranh về cảnh đời số phận của từng nhân vật đều hiện lên sống động, đều khiến độc giả cảm thông, giận hờn, yêu ghét theo từng vần thơ..Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú, nhất là tả cảnh ngụ tình. Chính nghệ thuật này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh ngụ tình mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật phụ ẩn chứa trong đó, như trong tám câu thơ cuối của đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh’
Ầm ầm tiếng sống kếu quanh ghế ngồi.”
Nếu đọc trên những dòng chữ, ta có thể thấy đây là đoạn thơ chỉ tả cảnh. Nhưng nếu dùng cảm xúc và suy nghĩ của mình, đọc giữa nhưng dòng chữ thì ta lại nhìn thấu tâm trạng của Kiều mà Nguyễn Du gửi gắm đến người đọc bằng lối kể chuyện nửa trực tiếp. Nghệ thuật của ông là mang cái gì rộng lớn mênh mông, để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé. Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng nhớ tới quê hương, tới thân phận bọt bèo không định hướng, tới tương lai u tối, đáng sợ với đầy rẫy những cạm bẫy rình rập của mình. Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn, của cây cỏ, của trăng và của nước. Đó là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng, một yếu tố nhấn cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được mảng chính và mảng phụ. Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”:
”Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la- màu xanh non mới mẻ, tinh khôi, đầy sức sống; dưới bầu trời mênh mông với màu xanh khoáng đạt, trong trẻo; nổi những bông hoa lê trắng tinh- màu trắng nhẹ nhàng, thanh khiết. Chỉ có hai màu xanh và trắng, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh hài hoà đến tuyệt diệu, dù không rực rỡ nhưng vẫn hết sức vui tươi, thể hiện tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong buổi du xuân. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “ cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát , nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được. Chữ điểm làm cảnh vật có hồn chứ không tĩnh tại. Cũng trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một lối tả cảnh ngụ tình khác nữa. Nguyễn Du vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Nói một cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Ví dụ như đoạn thơ cuối trong “cảnh ngày xuân”:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Nguyễn Du không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên theo bước đi của thơi gian mà còn nhuộm màu tâm trạng đó là tâm trạng của chị em Kiều lúc này, tất cả đều lắng xuống, chơi vơi trong một trạng thái mơ hồ nhưng có thực. Nó là nỗi bâng khuâng, man mác nuối tiếc. Ngay ở câu đầu thôi, chúng ta đã nhìn thấy được cảnh vật trở nên trầm buồn hơn vào buổi chiều tà. Chị em Kiều du xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn. Nguyễn Du dùng hai chữ “tà tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật. Dường như con người cũng chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Ở câu thơ tiếp đó, tác giả miêu tả hành động, tâm trạng của hai chị em cũng bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, “dan tay” tưởng là vui nhưng thực chất là chia sẻ cái buồn không nói hết. Không gian không còn cái bát ngát, trong sáng mà đang nhẹ dần, lặng dần. “Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu. Thực ...
Có thể bạn quan tâm sự tác giả đã làm nhịp thơ dường như chậm hẳn lại. Cách dùng từ như thế này biểu hiện tài hoa và khéo léo của Nguyễn Du khi lấy đà để chuyển ý của câu chuyện sang một cảnh mới với mối tâm trạng mới của nhân vật: Cảnh chị em Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên sau đó.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cánh hoa, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn. Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người”. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm truyện thơ nôm hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
k. Phân tích biện pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích trên bằng đoạn văn tổng phân hợp có sử dụng phép thế và phép lặp (gạch chân phía dưới các phép liên kết đó).
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.
Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.
Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.