thuyết minh về đình phong phú Quận 9
thuyết minh về 1 phong tục tập quán của quê hương phú thọ
Tham khảo:
Phú Thọ - Đất Tổ Hùng Vương, cội nguồn dân tộc Việt Nam nơi hội tụ, sinh sống của 54 dân tộc anh em. Mỗi độ tết đến xuân về đông bào các dân tộc ở vùng Đất Tổ có khá nhiều hình thức văn nghệ, trò chơi theo phong tục tập quán truyền thống của dân tộc mình để đón Tết, mừng Xuân.
Làm sao để người viết có được những tri thức đúng, phong phú và hữu ích về đối tượng được thuyết minh?
A. Hỏi han, nói chuyện với nhiều người
B. Dành nhiều thời gian quan sát, tìm hiểu về sự vật, hiện tượng
C. Nắm được những yếu tố bản chất, đặc trưng nhất của đối tượng thuyết minh
D. Câu B và C đúng
Làm sao để người viết có được những tri thức đúng, phong phú và hữu ích về đối tượng được thuyết minh?
A. Hỏi han, nói chuyện với nhiều người
B. Dành nhiều thời gian quan sát, tìm hiểu về sự vật, hiện tượng
C. Năm được những yếu tố bản chất, đặc trưng nhất của đối tượng thuyết minh
D. Câu B và C đúng
quận Phú Nhuận là một quận mội thành của thành phố HCM, Việt Nam. Quận nằm về hướng tây bắc, cách trung tâm thành phố 4,7km theo đường chim bay,được xem là quận cửa ngõ ra vào phía bắc của khu trung tâm thành phố HCM. Quận có diện tích 5km vuông, chiếm 0,25% diện tích thành phố HCM.
a) Tính diện tích thành phố HCM
b) Nếu vẽ bản đồ thành phố với tỉ lệ 1: 10^9, ta sẽ vẽ quận Phú Nhuận có diện tích bao nhiêu xăng ti mét vuông?
Viết đoaạn văn khoảng 9 câu chứng minh: ca Huế phong phú và đa dạng về làn điệu dân ca, chú ý sử dụng câu rút gọn.
thuyết minh về món ăn của phú thọ
giup mik v mn
Tham khảo:
Sự dẻo thơm của bột gạo hòa quyện với lớp nhân thịt lợn thơm ngon cùng nhiều nguyên liệu khác, bánh tai Phú Thọ đã trở thành món ăn yêu thích của người dân nơi đây.
Bánh tai còn có tên gọi khác là bánh Hòn. Đây là một loại bánh đặc sản nổi tiếng của mảnh đất Phú Thọ. Trước đây, bánh hay được gọi là bánh hòn tai vì bánh nặn giống như hình con trai trai. Về sau, bánh được gọi tắt là bánh tai nhưng hình dáng vẫn giống hình con trai nhưng dài hơn, nặn mỏng hơn và hơi cong cong giống như cái tai. Vì hình dạng của bánh giống cái tai nên người dân Phú Thọ gọi là bánh Tai.
Bánh tai Phú Thọ sở hữu màu trắng đục của bột gạo tẻ thế nên bánh rất thơm. Lớp nhân của bánh được làm bằng thịt lợn và thêm nhiều nguyên liệu khác nên khi thưởng thức món bánh tai bạn sẽ cảm nhận được sự dẻo ngọt và béo ngậy của chiếc bánh. Về cơ bản, bánh tai cực kỳ dễ ăn và nhiều người có thể ăn được vì nó làm từ bột gạo tẻ nên lành tính.
Trong ẩm thực Phú Thọ, khi thưởng thức món bánh tai thì người ta thường ăn kèm vơi cháo bột thái, hay cháo gạo tẻ và kèm theo một bát nước mắm ngon hòa sẵn. Mỗi bát cháo bạn có thể cắt nhỏ 1 – 2 chiếc bánh tai vào vừa dễ ăn lại no căng bụng. Ngày nay, thì tùy theo nhu cầu ăn uống của mọi người thì bánh tai cũng được thưởng thức theo cách khác nhau. Có người thêm nước mắm vắt chanh, một chút ớt cộng tiêu…để chấm bánh tai thì ăn vừa đậm vị mà không bị ngấy.
Thuyết minh về tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.
1. Mở bài
Nhắc đến Trương Hán Siêu, người ta nghĩ đến Phú sông Bạch Đằng. Và trở lại, Phú sông Bạch Đằng cũng đủ làm nên tên tuổi Trương Hán Siêu.
2. Thân bài
- Vài nét về Trương Hán Siêu.
- Thuyết minh về Phú sông Bạch Đằng:
+ Được viết vào khoảng năm mươi năm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, khi nhà Trần có dấu hiệu bắt đầu suy thoái.
+ Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công hiển hách trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ thời Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán đến nhà Trần chiến thắng quân Nguyên Mông.
+ Bài phú được viết theo lối phú cổ thể.
+ Cảm hứng: Niềm tự hào, vừa đọng nỗi đau, vừa thể hiện triết lí về sự thay đổi, biến thiên và xoay vần của tạo hóa.
+ Nội dung: Cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật khách và các bô lão trên sông Bạch Đằng. khách và các bô lão bình luận về chiến thắng, công đức của các vua Trần.
Phú sông Bạch Đằng bộc lộ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng, truyền thống nhân nghĩa của đất nước ta.
+ Nghệ thuật: Tác phẩm có cấu tứ đơn giản, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, từ ngữ gợi hình sắc, giọng điệu hào hùng trang trọng, có lúc lắng đọng gợi cảm, lúc lại triết lí sâu xa.
3. Kết bài
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật phú trong văn học trung đại.
Thuyết minh về 1 công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử thuộc quận Đống Đa ( KHÔNG CHÉP MẠNG )
Tham khảo
Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những địa điểm thu hút du khách bậc nhất của Hà Nội, nơi đây cũng chính là chứng nhân lịch sử cho nền văn hóa nho học, đã đào tạo ra vô số nhân tài cho đất nước từ thuở thành lập, được xem là ngôi trường đại học chính quy đầu tiên của Việt Nam. Quốc Tử Giám chính là minh chứng cho quyết tâm nâng cao học thức nhân dân, phát triển nền giáo dục nước nhà lên đến đỉnh cao của vua Lý Nhân Tông, và quả thực ông đã thành công, khi lịch sử đã đánh giá triều Lý là triều đại có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ nhất. Với lối kiến trúc độc đáo và bề dày lịch sử gắn liền với sự hưng thịnh phát triển của nhiều triều đại, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã mang đến trong trái tim nhiều người sự trân trọng và ngưỡng mộ vô cùng.
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng cùng thời sau đó vào năm 1076, ngay bên cạnh Văn Miếu. Quần thể di tích này tọa lạc tại phía Nam kinh thành Thăng Long, thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội. Công trình có tổng diện tích là 54331m2, bốn phía được bao quanh bởi các tuyến phố chính của quận, hướng Nam là cổng chính giáp với phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Đông giáp với phố Văn Miếu.
Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám có kết cấu tường gạch vồ bao quanh toàn bộ diện tích, phía bên trong lại chia làm 5 tầng không gian có kiến trúc khác nhau, mỗi lớp như vậy được ngăn cách bằng một tường gạch dày có ba cửa thông với nhau. Nhìn tổng quan quần thể di tích gồm ba bộ phận chính là Hồ Văn, khu Văn Miếu thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám. Bắt đầu từ cửa chính ở phía Nam, giáp phố Quốc Tử Giám, ta nhìn thấy Hồ Văn nằm đối diện với khu Văn Miếu, từ Hồ Văn bước sang bên kia đường là bức tường gạch ngoài cùng của khu di tích gồm có Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao vượt lên hình con nghê chầu vào, hai trụ ngoài đắp hình chim phượng, hai bên là hai Bia Hạ Mã, tại đây có là công hầu, bá tước cũng phải xuống ngựa đi từ bia này sang bia kia rồi mới được lên xe ngựa đi tiếp. Đi vào trong gặp đầu tiên là cổng Văn Miếu với cổng giữa xây vuông và cao hai tầng, hai cổng bên nhỏ hơn đối xứng nhau, khu vực thứ nhất này gọi là Nhập đạo bao gồm khu Văn Miếu, bên cạnh là Vườn Giám nơi chiếm gần nửa diện tích của cả quần thể. Đi tiếp vào trong gặp cổng Đại Trung, qua cổng này khu vực bên trong gồm Khuê Văn Các nằm ngoài cùng, là một lầu vuông tám mái, bốn cửa tròn, được ví như nơi giao hòa của đất trời, hiện nay hình ảnh của Khuê Văn Các được in trên tờ tiền polyme 100.000 đồng của nước ta. Tiến vào bên trong là giếng Thiên Quang hay còn gọi là Văn Trì đặt ở trung tâm, các Bia Tiến Sĩ được đặt ở hai bên phải trái của giếng, mỗi bên gồm 41 bia xếp thành 2 hàng ngang, mỗi bia được đặt trên lưng một con rùa đá xanh, trên đó khắc tên các tiến sĩ đã thi đậu trong từng đợt khoa cử. Đi vào trong nữa ta lại gặp cổng Đại Thành, phía trong này bao gồm khu Đại Thành là nơi đặt điện thờ Khổng Tử, sau đó gặp tiếp cổng Thái Học, bên trong bao gồm khu Thái Học, Lầu Chuông và Lầu trống chính là nơi học tập của các sĩ tử, đã đào tạo nhân tài cho nhiều triều đại của nước ta.
Văn Miếu trong những năm đầu mới xây dựng thì đóng vai trò là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh người đã khai sinh ra nho học, đồng thời là trường học hoàng gia đầu tiên của Đại Việt mà học sinh đầu tiên là thái tử Lý Càn Đức sau là vua Lý Nhân Tông. Sau khi Quốc Tử Giám hoàn thiện thì khu di tích này chính thức trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam, ban đầu chỉ dành cho con cái nhà quyền quý, sau mở cửa cho cả con em thường dân nhưng có tài trí hơn người đến học. Ngày nay Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở thành khu di tích lịch sử nằm trong danh sách 23 Di tích Quốc gia đặc biệt, là chứng minh cho sự phát triển của nền giáo dục của nước ta dưới chế độ phong kiến, đồng thời là địa điểm du lịch hấp dẫn đối với nhiều du khách. Nơi đây cũng lưu giữ lại những tư liệu lịch sử quý giá, những nét kiến trúc độc đáo, cùng với những dấu vết về một thời thịnh trị của Nho giáo tại Việt Nam.
Quần thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám chính là đại diện cho truyền thống hiếu học, lễ nghĩa, tôn sư trọng đạo, đề cao nhân tài với những giá trị tinh thần, văn hóa vô cùng sâu sắc và quý giá, là biểu tượng của cả đất nước. Chính vì vậy mỗi chúng ta cần có ý thức giữ gìn, bảo tồn khu di tích để không chỉ hôm nay mà con cháu chúng ta ngày sau có thể ý thức được và kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp này.
Thuyết Minh về hồ phú ninh quảng nam Ko copy mạng cảm ơn mọi người nhiều