Trình bày những đề nghị cải cách ở Việt Nam.
(Thời Gian,Người Lãnh Đạo,Tính Chất,Kết Cục)
MỌI NGƯỜI ƠI GIÚP EM VỚI !!!
vì sao các quan lại, sĩ phu đưa ra những đề nghị cải cách? trình bày những nội dung chính và kết cục của những đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỳ XIX?
- Trước tình trạng đất nước ngày một nguy khốn, đồng thời xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, muốn nước nhà giàu mạnh để có thể đương đầu với các cuộc tấn công ngày càng dồn dập kẻ thù, một số quan lại và sĩ phu đã đưa ra những đề nghị cải cách
- Nội dung chính:
+ Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định).
+ Đinh Văn Điền (1868) xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
+ Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục.
+ Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
- Kết cục: Các đề nghị cải cách không được thực hiện cải cách do còn lẻ tẻ, rời rạc, chưa phù hợp và chưa giải quyết được mâu thuẫn của xã hội Việt Nam lúc đó. Đồng thời cũng do triều đình bảo thủ, từ chối các đề nghị, cải cách.
Trình bày nội dung của trào lưu cải cách Duy Tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX? Vì sao những đề nghị cải cách trên không thực hiện được? Em hãy liên hệ với công cuộc đổi mới của nước ta từ năm 1986 đến nay. MỌI NGƯỜI GIÚP MÌNH VỚI, MÌNH ĐANG CẦN GẤP. XIN CẢM ƠN !!!
Trình bày kết cục hạn chế của những đề nghị cải cách ở việt nam cuối thế kỉ XIX (19)?
-Bài học kinh nghiệm của việt nam trong giai đoạn hiện nay
-Ý kiến của em về nhận định sau nếu việt nam tiến hành cải cách thì sẽ thoát khỏi trở thanh thục địa và chở thành nước nhật thứ 2
Hạn chế:
Các đề nghị cải cách mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó.
Kết cục: các đề nghị, cải cách đã không được thực hiện, do sự bảo thủ của triều Nguyễn.
Câu 1: Phân tích ý nghĩa , tác dụng và hạn chế của những đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỉ XIX ?
mọi người giúp em vs ạ mai em kiểm tra rùi :>>
Tác dụng: các đề nghị cải cách này đều đáp ứng phần nào yêu cầu của nước ta lúc đó.Hạn chế:Các đề nghị cải cách mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó.Kết cục: các đề nghị, cải cách đã không được thực hiện, do sự bảo thủ của triều Nguyễn.Ý nghĩaGây được tiếng vang lớn, tấn công vào những tư tưởng bảo thủ của triều Nguyễn.Phản ánh trình độ nhận thức mới của những người Việt Nam hiểu biết, thức thờiChuẩn bị cho sự ra đời phong trào Duy Tân ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX
***Cái câu trả lời kia hơi khó nhìn nên ban tham khảo cái này nha!
*Tác dụng: các đề nghị cải cách này đều đáp ứng phần nào yêu cầu của nước ta lúc đó.
*Hạn chế: Các đề nghị cải cách mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó.
-Kết cục: các đề nghị, cải cách đã không được thực hiện, do sự bảo thủ của triều Nguyễn.
*Ý nghĩa: Gây được tiếng vang lớn, tấn công vào những tư tưởng bảo thủ của triều Nguyễn.Phản ánh trình độ nhận thức mới của những người Việt Nam hiểu biết, thức thờiChuẩn bị cho sự ra đời phong trào Duy Tân ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX.
Trình bày hiểu biết của em về một đề nghị cải cách ở Việt Nam vào cuối Thế kỉ XIX liên hệ với cuộc cải cách Duy Tân Hưng Trịnh ở Nhật Bản năm 1868. Giúp mình với đang cần gấp
Bộ máy chính quyền mục mát từ trung ương đến địa phương, kinh tế sa sút, nhân dân bị áp bức một cổ hai tròng (sự bóc lột của triều đình phong kiến, sự bóc lột đàn áp của chính quyền đô hộ), đời sống vô cùng cực khổ => phong trào khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục bùng nổ dữ dội trong những năm cuối thế kỉ XIX.
Kết cục ,hạn chế và ý nghĩa của những đề nghị cải cách ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19 như thế nào?
Kết cục : các đề nghị cải cách ko được chấp nhận và thực hiện
Các cải cách còn có những điểm hạn chế :
- chưa xuất phát từ cơ sở trong nước
- Nhà Nguyễn bảo thủ, cự tuyệt mọi sự thay đổi
Ý Nghĩa :
- tấn công vào những tư tưởng bảo thủ của triều đình
- Thể hiện trình độ nhận thức của con người Việt Nam .
Hãy nêu hiểu biết của em về mối quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa lãnh đạo và nhân dân Cu-ba với đảng và nhân dân Việt Nam. Giúp mình với mọi người.
Tham khảo!
Ngày 2-12-1960, thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cu-ba, từ đó đến nay quan hệ hữu nghị và hợp tác giúp đỡ nhau về nhiều mặt ngày càng được thiết lập chặt chẽ.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Cu-ba đã giúp đỡ nhiều mặt cả về vật chất và tinh thần.
- Các nhà lãnh đạo Cu-ba và Việt Nam đã nhiều lần thăm viếng lẫn nhau (Chủ tịch Phi-đen Cát-xtơ-rô đã nhiều lần thăm Việt Nam), càng khẳng định mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay ngày càng tốt đẹp.
- Phi-đen Cát-xtơ-rô luôn coi trọng và ưu tiên phát triển mối quan hệ với Việt Nam, coi Việt Nam như một người anh em vô cùng thân thiết. Cũng như câu nói bất hủ của ông: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” đã được chứng minh và đi vào lịch sử mối quan hệ hai nước.
Ngày 2-12-1960, thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cu-ba, từ đó đến nay quan hệ hữu nghị và hợp tác giúp đỡ nhau về nhiều mặt ngày càng được thiết lập chặt chẽ.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Cu-ba đã giúp đỡ nhiều mặt cả về vật chất và tinh thần.
- Các nhà lãnh đạo Cu-ba và Việt Nam đã nhiều lần thăm viếng lẫn nhau (Chủ tịch Phi-đen Cát-xtơ-rô đã nhiều lần thăm Việt Nam), càng khẳng định mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay ngày càng tốt đẹp.
- Phi-đen Cát-xtơ-rô luôn coi trọng và ưu tiên phát triển mối quan hệ với Việt Nam, coi Việt Nam như một người anh em vô cùng thân thiết. Cũng như câu nói bất hủ của ông: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” đã được chứng minh và đi vào lịch sử mối quan hệ hai nướ
Hãy nêu:
- nội dung các đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỉ XIX
- kết cục, ý nghĩa các đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỉ XIX
- Bài học rút ra cho công cuộc xây dưng đất nước hiện nay
Tham khảo:
*nội dung các đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỉ XIX*
- Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định).
- Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
- Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục,…
- Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
*kết cục, ý nghĩa các đề nghị cải cách ở việt nam nửa cuối thế kỉ XIX
Kết cục của các đề nghị cải cách
- Hạn chế của các đề nghị cải cách: lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ cơ sở bên trong, chưa động chạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giải quyết mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
- Nguyên nhân khiến cho những đề nghị cải cách không thực hiện được: chủ yếu là do triều đình phong kiến nhà Nguyễn bảo thủ không muốn chấp nhận, những thay đổi, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh.
- Ý nghĩa của những đề nghị cải cách:
+ Gây tiếng vang lớn, tấn công vào những tư tưởng bảo thủ và phản ánh trình độ nhận thức mới của người Việt Nam hiểu biết, thức thời.
+ Góp phần vào việc chuẩn bị cho sự ra đời phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX ở Việt Nam.
*Bài học rút ra cho công cuộc xây dưng đất nước hiện nay:
Vẫn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc.
+ Chưa xuất phát từ những vấn đề cơ bản của thời đại: giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
- Triều đình phong kiến bảo thủ, cự tuyệt mọi đề nghị cải cách.
Chúng ta cần phải thay đổi
Trình bày những đề nghị cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX ?
Tham Khảo
- Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định).
- Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
- Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục,…
- Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.