Những câu hỏi liên quan
Phan Thị Minh Hằng
Xem chi tiết
Bùi Sinh Hùng
Xem chi tiết
ˇAиgelˇ
24 tháng 6 2023 lúc 19:44

Nói về danh lam thắng cảnh Đền Trần

Nước Việt Nam ta có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Ở mỗi nơi là có một danh lam thắng cảnh có vẻ đẹp khác nhau. Trong đó phải kể đến danh lam thắng cảnh Đền Trần. Đây là nơi mà rất nhiều dự khách trong và ngoài nước đến.

Đến Năm Định là phải ghé nơi đây. Đền Trần được xây dựng từ năm 1695. Đền Trần là một quần thể đền thờ tại đường Trần Thừa thành phố Nam Định. Nhìn từ xa ta có thể thấy kiến trúc của đền vô cùng đặc biệt. Nơi đây là nơi thờ các vị vua nhà Trần và các quan lại có công lớn trong việc giúp các vị vua nhà Trần cái quản đất nước. Nơi đây có quy mô khá rộng. Tổ chức nhiều lễ hội trong năm nhằm nhớ ơn.

Trước khi vào đền, phải qua hệ thống cổng ngũ môn. Trên cổng ghi các chữ Hán Chính nam môn và Trần Miếu. Bước vào bên trong ta có thể thấy được nhiều điều thú vị. Đầu tiên là Đền Trần bao gồm tận 3 công trình kiến trúc chính là đền Thiên Trường , đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa. Nếu bạn chưa đến đây thì cứ nghĩ chỉ có một đền thờ thôi. Dù có ba đền thờ thì cũng chỉ với mục đích duy nhất là thờ các vị vua nhà Trần. Đa số các đền này đều rộng ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian, tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn và 2 gian tả hữu. Ta có thể tham quan kĩ hơn và biết được nhiều thứ. Từ những vị vua quan lại của nhà Trần tất cả đều nằm trong Đền Trần. Phong cảnh ở đây cũng rất đẹp và nhiều cây cối. Hằng năm có rất nhiều người đến đây tham quan.

Hãy đến với đền Trần một lần khi ra Năm Định. Bạn chắc chắn sẽ không hối tiếc khi đến đây đâu.

Đặng Nguyễn Hồng Vân
Xem chi tiết
Lê Quỳnh Chi
9 tháng 5 2018 lúc 22:36

Dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay có nhiều truyền thống quí báu được gìn giữ và lưu truyền.Một trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp nhất được thể hiện qua câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”,câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta phải biết ơn những người đã giúp đỡ ta,đây là lời dạy mà mỗi người Việt Nam phải luôn ghi nhớ.Đến ngày nay,lời dạy của người xưa càng sâu sắc hơn.

Vậy “Uống nước nhớ nguồn” là như thế nào?”Uống nước” ở đây là thừa hưởng thành quả lao động của những người đi trước,thừa hưởng những gì mà họ đã bỏ công sức để tạo ra,để có được.”Nguồn” chính là nơi xuất phát,nơi khởi đầu của dòng nước,và ở đây “nguồn”chính là những thế hệ trước,những con người mà đã tạo ra “dòng nước” hay nói cách khác là tạo ra thành quả mà chúng ta đã hưởng ngày hôm nay.Cả câu tục ngữ chính là lời răn dạy,nhắc nhở chúng ta,những lớp người đi sau,những thế hệ đang thừa hưởng thành quả phải luôn nhớ ơn công lao của thế hệ trước.

Trong vũ trụ,thiên nhiên và xã hội không có sự vật nào mà không có xuất xứ hay nguồn gốc của mình.Tương tự như thế,thành quả không phải tự nhiên có mà phải do lao động mà nên.Như để có hạt gạo mà chúng ta ăn hàng ngày là cả một quá trình lao động cực khổ của những người nông dân.Họ đã phài sáng nắng chiều mưa làm việc ở ngoài đồng,nhổ mạ cấy lúa,gặt lúa,đập lúa…để có được hạt gạo là khó thế đó.Chính vì thế mà chúng ta nên biết quí trọng,biết ơn người đã cho ta những gì ta đang có.Lòng biết ơn phải xuất phát từ tình cảm,từ ý thức ghi nhớ công ơn của những người tạo ra thành quả phục vụ cuộc sống của chúng ta,đó chính là “nhớ nguồn”,là đạo lý làm người tất yếu mà mỗi người cần có.Hằng năm cả nước ta làm lễ “Giỗ tổ Hùng Vương” để ghi nhớ công lao của các vua Hùng đã dựng nước và giữ nước,hay hằng năm,để mừng sinh nhật Bác,cả nước đã cùng ôn lại chặng đường mà Bác đã đi qua,ca ngợi sự hy sinh của Bác để giành lại độc lập tự do cho nước nhà,đó cũng là một hình thức “nhớ nguồn” của chúng ta,thể hiện một tình cảm đẹp,một đạo lý đẹp của dân tộc ta.Lòng biết ơn giúp ta gắn bó hơn với những người đi trước,sẽ trân trọng những thành quả và công sức của tiền nhân,gần gũi hơn với tập thể…và từ đó sẽ tạo nên một xã hột đoàn kết,thân ái hơn giữa mọi người.Điều đó cho ta thấy truyền thống“Uống nước nhớ nguồn” là một truyền thống vô cùng cao đẹp.Nếu con người không có lòng biết ơn thì sẽ trở nên rất ích kỉ,không hiểu biết,thờ ơ với mọi người xung quanh và có thể sẽ trở thành con người ăn bám xã hội.Ví dụ một con người không có lòng biết ơn,không nhớ đến cội nguồn ,chỉ biết hưởng thụ mà không làm,không hiểu được lao động là như thế nào về lâu dài sẽ thành kẻ ăn bám,ngồi một chỗ mà hưởng thành quả lao động.

Vậy để thể hiện lòng biết ơn ta phải làm gì?Là một người Việt Nam đặt biệt là một học sinh Việt Nam luôn nhớ đến câu“Uống nước nhớ nguồn”,ghi nhớ và biết ơn thế hệ đi trước đã cho ta có ngày hôm nay ta nên trân trọng và bảo vệ những thành quả của cha ông,phát triển thành những điều tốt đẹp hơn nữa.Cụ thể ta nên tự hào về những truyền thống và nền văn hóa ngàn năm văn hiến.Ví dụ như loại hình “Nhã nhạc cung đình Huế” đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể,hay văn hóa cồng chiên của dân tộc Tây Nguyên,những truyền thống đẹp như “Tôn sư trọng đạo”,”Kính trên nhường dưới” và cả “Uống nước nhớ nguồn”…..đều là những truyền thống,văn hóa lâu đời rất đáng tự hào cần được giữ gìn và phát huy của dân tộc.Ta cũng nên tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại dể làm giàu hơn truyền thống và văn hóa của mình,quan trọng là phải giữ được bản sắc văn hóa của quê hương.Ví dụ cụ thể nhất là tiếp thu nền khoa học-kĩ thuật phát triển của nhân loại để làm giàu,xây dưng đất nước và giới trẻ ngày nay cần tránh ăn theo phong cách ăn mặc của các nước khác vì có những phong cách trái với bản sắc truyền thống của dân tộc.Hơn hết là phải ý thức hưởng thụ thành quả hợp lí,tiết kiệm vì đó không phải công sức của chính bản thân,biết hưởng thụ thì cũng phải biết lao động mới xứng đáng những gì có được.Bản thân em,một người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì em sẽ học thật nghiêm túc,có kết quả thật tốt để có thể tạo ra thành quả lao động của chính mình,cho xã hội.Đó như là biểu hiện lòng biết ơn của em,sự đền đáp cho gia đình,xã hội,cho thế hệ trước vì cho em được ngày hôm nay.

“Uống nước nhớ nguồn”luôn là lời nhắc nhở quan trọng khi mà thế hệ ngày nay đã có thái độ thờ ơ với cội nguồn,với công lao của người đi trước,thích hưởng thụ hơn lao động.Từ câu tục ngữ em rút ra bài học cho chính bản thân mình là phải luôn nhớ ơn những người đã cho mình ngày hôm nay:sự dưỡng dục của ba me,dạy dỗ của thẩy cô,sự quan tâm của những người sống quanh mình,công dựng nước và giữ nước của bao thế hệđi trước nữa.Và để xứng đáng với công ơn đó,en sẽ sống thật tốt,học tập nghiêm túc,rèn luyện và sống đúng theo đạo lí truyền thống dân tộc để trở thành một công dân tốt của đất nước Việt Nam. 
--------
Qua quá trình lao động của nhân dân ta và trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã chống lại ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt đã lập nên bao chiến công hiển hách, những trang sử vẻ vang. Chính đặc điểm lịch sử đó đã tạo nên một truyền thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc ta, đó là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" và trong cuộc sống ngày hôm nay lời dạy đó càng trở nên sâu sắc.

Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là “uống nước nhớ nguồn”. “Uống nước” là sự thừa hưởng hoặc sử dụng thành quả lao động, đấu tranh cách mạng của các thế hệ trước. “Nguồn” chỉ nguồn gốc, nguồn cội hay có thể hiểu rộng ra là nguyên nhân dẫn đến con người hoặc tập thể làm ra thành quả đó. “Nhớ nguồn” là hành động mang tính đạo đức cao, hưởng thụ những thành quả không tự nhiên mà có. Câu tục ngữ như một lời khuyên lời nhắc nhủ cảu ông cha ta đối với lớp người đi sau, đối với tất cả những ai đã, đang và sẽ thừa hưởng những thành quả công lao của những người đi trước đã để lại cho ta.

Trong cuộc sống không gì gọi là tự nhiên có sẵn. không gì là không có nguồn gốc. Và chúng ta đuợc sống trong một xã hội hòa bình và hạnh phúc như ngày hôm nay thì đã có biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu ông cha ta phải đổ xuống .. Chúng ta đã cố gắng làm được nhiều việc để đền đáp công ơn thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với nước. Vào dịp 27-7 hằng năm, ngày thương binh liệt sĩ, toàn Ðảng, toàn dân ta có dịp nhìn lại những việc đã làm để đền ơn đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ. Cùng với đó là hàng loạt hoạt động tri ân khác cũng đồng loạt diễn ra với sự thành kính, biết ơn những người đã ngã xuống. Chắc khó có nơi nào trên thế giới, hoạt động đền ơn đáp nghĩa lại có sức lan tỏa rộng khắp như ở Việt Nam, “Uống nước, nhớ nguồn”... Dân tộc Việt Nam là vậy, con người Việt Nam là vậy - chung thủy, nghĩa tình. Gần gũi với chúng ta hơn đó là cha mẹ.. Ai ai cũng lớn lên qua những câu hát chứa chan tình thương của mẹ. Rồi chính bố là người dẫn dắt ta đi khắp nẻo đường đời.Tình thương của cha mẹ luôn là trời bể. Các thầy cô giáo là những người dạy dỗ chúng ta nên người. Thầy cô trang bị cho chúng ta những hành trang vững chắc nhất để vào đời, đó là kiến thức. Do đó, ai cũng rất yêu mến cha mẹ, kính trọng thầy cô, không quên công lao to lớn của họ đã giúp chúng ta khôn lớn. Một lần nữa, đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” được thể hiện cụ thể nhất. Vì thế, ‘nhớ nguồn’ là bổn phận tất yếu, là đạo lý làm người, là một tình cảm đẹp đẹp xuất phát từ trong chính mỗi con người chúng ta, xuất phát từ ý thức ghi nhớ công lao người đã tạo nên những điều tốt đẹp đến với ta.

Một đất nước, gia đình, xã hội mà giữ được đạo lí “uống nước nhớ nguồn” thì đất nước, gia đình, xã hội ấy tốt đẹp, thân ái biết bao. Song trong cuộc sống không phải ai cũng hiền lành, trung thực, đạo đức tốt, cũng có lắm kẻ giả dối, vong ân bội nghĩa những người làm ra thành quả. Câu tục ngữ thể hiện thật chính xác và sâu sắc ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” nhằm khuyên răn những kẻ “có mới nới cũ”, “qua cầu rút ván”, “ăn cháo đá bát”,…

Mỗi khi được hưởng một thành quả nào, chúng ta phải có nghĩa vụ giữ gìn, trân trọng và phát huy những gì mà ông cha ta đã cố gắng gây dựng và bảo vệ như các bản sắc văn hóa quê hương, văn hóa dân tộc. Không chỉ có thế, chúng ta còn phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại để làm cho truyền thống văn hóa ta ngày càng phong phú. Bản thân là một trong những thanh niên của xã hội mới, ta phải cố gắng học tập thật nghiêm túc, cần cù lao động, tạo ra những thành quả không chỉ cho riêng chúng ta mà còn cho xã hội. Đó chính là biểu hiện cụ thể của tấm lòng “uống nước nhớ nguồn”.

“Uống nước nhớ nguồn” là lời nhắn nhủ hết sức ngắn gọn và giản dị, là bài học sâu sắc, có giá trị từ ngàn xưa và cho đến mai sau. “Uống nuớc nhớ nguồn” – Sống cho trọn nghĩa trọn tình: nhớ ơn sinh thành,dưỡng dục của cha mẹ, công ơn dạy dỗ của thầy cô, công ơn của những thế hệ đi trước … Từ đó phải biết học tập và làm việc sao 

Phan Thị Hà Phương
10 tháng 5 2018 lúc 8:59

Dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay có nhiều truyền thống quí báu được gìn giữ và lưu truyền.Một trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp nhất được thể hiện qua câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”,câu tục ngữ nhắc nhở chúng ta phải biết ơn những người đã giúp đỡ ta,đây là lời dạy mà mỗi người Việt Nam phải luôn ghi nhớ.Đến ngày nay,lời dạy của người xưa càng sâu sắc hơn.

Vậy “Uống nước nhớ nguồn” là như thế nào?”Uống nước” ở đây là thừa hưởng thành quả lao động của những người đi trước,thừa hưởng những gì mà họ đã bỏ công sức để tạo ra,để có được.”Nguồn” chính là nơi xuất phát,nơi khởi đầu của dòng nước,và ở đây “nguồn”chính là những thế hệ trước,những con người mà đã tạo ra “dòng nước” hay nói cách khác là tạo ra thành quả mà chúng ta đã hưởng ngày hôm nay.Cả câu tục ngữ chính là lời răn dạy,nhắc nhở chúng ta,những lớp người đi sau,những thế hệ đang thừa hưởng thành quả phải luôn nhớ ơn công lao của thế hệ trước.

Trong vũ trụ,thiên nhiên và xã hội không có sự vật nào mà không có xuất xứ hay nguồn gốc của mình.Tương tự như thế,thành quả không phải tự nhiên có mà phải do lao động mà nên.Như để có hạt gạo mà chúng ta ăn hàng ngày là cả một quá trình lao động cực khổ của những người nông dân.Họ đã phài sáng nắng chiều mưa làm việc ở ngoài đồng,nhổ mạ cấy lúa,gặt lúa,đập lúa…để có được hạt gạo là khó thế đó.Chính vì thế mà chúng ta nên biết quí trọng,biết ơn người đã cho ta những gì ta đang có.Lòng biết ơn phải xuất phát từ tình cảm,từ ý thức ghi nhớ công ơn của những người tạo ra thành quả phục vụ cuộc sống của chúng ta,đó chính là “nhớ nguồn”,là đạo lý làm người tất yếu mà mỗi người cần có.Hằng năm cả nước ta làm lễ “Giỗ tổ Hùng Vương” để ghi nhớ công lao của các vua Hùng đã dựng nước và giữ nước,hay hằng năm,để mừng sinh nhật Bác,cả nước đã cùng ôn lại chặng đường mà Bác đã đi qua,ca ngợi sự hy sinh của Bác để giành lại độc lập tự do cho nước nhà,đó cũng là một hình thức “nhớ nguồn” của chúng ta,thể hiện một tình cảm đẹp,một đạo lý đẹp của dân tộc ta.Lòng biết ơn giúp ta gắn bó hơn với những người đi trước,sẽ trân trọng những thành quả và công sức của tiền nhân,gần gũi hơn với tập thể…và từ đó sẽ tạo nên một xã hột đoàn kết,thân ái hơn giữa mọi người.Điều đó cho ta thấy truyền thống“Uống nước nhớ nguồn” là một truyền thống vô cùng cao đẹp.Nếu con người không có lòng biết ơn thì sẽ trở nên rất ích kỉ,không hiểu biết,thờ ơ với mọi người xung quanh và có thể sẽ trở thành con người ăn bám xã hội.Ví dụ một con người không có lòng biết ơn,không nhớ đến cội nguồn ,chỉ biết hưởng thụ mà không làm,không hiểu được lao động là như thế nào về lâu dài sẽ thành kẻ ăn bám,ngồi một chỗ mà hưởng thành quả lao động.

Vậy để thể hiện lòng biết ơn ta phải làm gì?Là một người Việt Nam đặt biệt là một học sinh Việt Nam luôn nhớ đến câu“Uống nước nhớ nguồn”,ghi nhớ và biết ơn thế hệ đi trước đã cho ta có ngày hôm nay ta nên trân trọng và bảo vệ những thành quả của cha ông,phát triển thành những điều tốt đẹp hơn nữa.Cụ thể ta nên tự hào về những truyền thống và nền văn hóa ngàn năm văn hiến.Ví dụ như loại hình “Nhã nhạc cung đình Huế” đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể,hay văn hóa cồng chiên của dân tộc Tây Nguyên,những truyền thống đẹp như “Tôn sư trọng đạo”,”Kính trên nhường dưới” và cả “Uống nước nhớ nguồn”…..đều là những truyền thống,văn hóa lâu đời rất đáng tự hào cần được giữ gìn và phát huy của dân tộc.Ta cũng nên tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại dể làm giàu hơn truyền thống và văn hóa của mình,quan trọng là phải giữ được bản sắc văn hóa của quê hương.Ví dụ cụ thể nhất là tiếp thu nền khoa học-kĩ thuật phát triển của nhân loại để làm giàu,xây dưng đất nước và giới trẻ ngày nay cần tránh ăn theo phong cách ăn mặc của các nước khác vì có những phong cách trái với bản sắc truyền thống của dân tộc.Hơn hết là phải ý thức hưởng thụ thành quả hợp lí,tiết kiệm vì đó không phải công sức của chính bản thân,biết hưởng thụ thì cũng phải biết lao động mới xứng đáng những gì có được.Bản thân em,một người học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì em sẽ học thật nghiêm túc,có kết quả thật tốt để có thể tạo ra thành quả lao động của chính mình,cho xã hội.Đó như là biểu hiện lòng biết ơn của em,sự đền đáp cho gia đình,xã hội,cho thế hệ trước vì cho em được ngày hôm nay.

“Uống nước nhớ nguồn”luôn là lời nhắc nhở quan trọng khi mà thế hệ ngày nay đã có thái độ thờ ơ với cội nguồn,với công lao của người đi trước,thích hưởng thụ hơn lao động.Từ câu tục ngữ em rút ra bài học cho chính bản thân mình là phải luôn nhớ ơn những người đã cho mình ngày hôm nay:sự dưỡng dục của ba me,dạy dỗ của thẩy cô,sự quan tâm của những người sống quanh mình,công dựng nước và giữ nước của bao thế hệđi trước nữa.Và để xứng đáng với công ơn đó,en sẽ sống thật tốt,học tập nghiêm túc,rèn luyện và sống đúng theo đạo lí truyền thống dân tộc để trở thành một công dân tốt của đất nước Việt Nam. 
--------
Qua quá trình lao động của nhân dân ta và trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã chống lại ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt đã lập nên bao chiến công hiển hách, những trang sử vẻ vang. Chính đặc điểm lịch sử đó đã tạo nên một truyền thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc ta, đó là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" và trong cuộc sống ngày hôm nay lời dạy đó càng trở nên sâu sắc.

Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là “uống nước nhớ nguồn”. “Uống nước” là sự thừa hưởng hoặc sử dụng thành quả lao động, đấu tranh cách mạng của các thế hệ trước. “Nguồn” chỉ nguồn gốc, nguồn cội hay có thể hiểu rộng ra là nguyên nhân dẫn đến con người hoặc tập thể làm ra thành quả đó. “Nhớ nguồn” là hành động mang tính đạo đức cao, hưởng thụ những thành quả không tự nhiên mà có. Câu tục ngữ như một lời khuyên lời nhắc nhủ cảu ông cha ta đối với lớp người đi sau, đối với tất cả những ai đã, đang và sẽ thừa hưởng những thành quả công lao của những người đi trước đã để lại cho ta.

Trong cuộc sống không gì gọi là tự nhiên có sẵn. không gì là không có nguồn gốc. Và chúng ta đuợc sống trong một xã hội hòa bình và hạnh phúc như ngày hôm nay thì đã có biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu ông cha ta phải đổ xuống .. Chúng ta đã cố gắng làm được nhiều việc để đền đáp công ơn thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với nước. Vào dịp 27-7 hằng năm, ngày thương binh liệt sĩ, toàn Ðảng, toàn dân ta có dịp nhìn lại những việc đã làm để đền ơn đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ. Cùng với đó là hàng loạt hoạt động tri ân khác cũng đồng loạt diễn ra với sự thành kính, biết ơn những người đã ngã xuống. Chắc khó có nơi nào trên thế giới, hoạt động đền ơn đáp nghĩa lại có sức lan tỏa rộng khắp như ở Việt Nam, “Uống nước, nhớ nguồn”... Dân tộc Việt Nam là vậy, con người Việt Nam là vậy - chung thủy, nghĩa tình. Gần gũi với chúng ta hơn đó là cha mẹ.. Ai ai cũng lớn lên qua những câu hát chứa chan tình thương của mẹ. Rồi chính bố là người dẫn dắt ta đi khắp nẻo đường đời.Tình thương của cha mẹ luôn là trời bể. Các thầy cô giáo là những người dạy dỗ chúng ta nên người. Thầy cô trang bị cho chúng ta những hành trang vững chắc nhất để vào đời, đó là kiến thức. Do đó, ai cũng rất yêu mến cha mẹ, kính trọng thầy cô, không quên công lao to lớn của họ đã giúp chúng ta khôn lớn. Một lần nữa, đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” được thể hiện cụ thể nhất. Vì thế, ‘nhớ nguồn’ là bổn phận tất yếu, là đạo lý làm người, là một tình cảm đẹp đẹp xuất phát từ trong chính mỗi con người chúng ta, xuất phát từ ý thức ghi nhớ công lao người đã tạo nên những điều tốt đẹp đến với ta.

Một đất nước, gia đình, xã hội mà giữ được đạo lí “uống nước nhớ nguồn” thì đất nước, gia đình, xã hội ấy tốt đẹp, thân ái biết bao. Song trong cuộc sống không phải ai cũng hiền lành, trung thực, đạo đức tốt, cũng có lắm kẻ giả dối, vong ân bội nghĩa những người làm ra thành quả. Câu tục ngữ thể hiện thật chính xác và sâu sắc ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” nhằm khuyên răn những kẻ “có mới nới cũ”, “qua cầu rút ván”, “ăn cháo đá bát”,…

Mỗi khi được hưởng một thành quả nào, chúng ta phải có nghĩa vụ giữ gìn, trân trọng và phát huy những gì mà ông cha ta đã cố gắng gây dựng và bảo vệ như các bản sắc văn hóa quê hương, văn hóa dân tộc. Không chỉ có thế, chúng ta còn phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại để làm cho truyền thống văn hóa ta ngày càng phong phú. Bản thân là một trong những thanh niên của xã hội mới, ta phải cố gắng học tập thật nghiêm túc, cần cù lao động, tạo ra những thành quả không chỉ cho riêng chúng ta mà còn cho xã hội. Đó chính là biểu hiện cụ thể của tấm lòng “uống nước nhớ nguồn”.

“Uống nước nhớ nguồn” là lời nhắn nhủ hết sức ngắn gọn và giản dị, là bài học sâu sắc, có giá trị từ ngàn xưa và cho đến mai sau. “Uống nuớc nhớ nguồn” – Sống cho trọn nghĩa trọn tình: nhớ ơn sinh thành,dưỡng dục của cha mẹ, công ơn dạy dỗ của thầy cô, công ơn của những thế hệ đi trước … Từ đó phải biết học tập và làm việc sao cho xứng đáng với đạo lý làm người và truyền thống dân tộc ta.

Minh Tiến
Xem chi tiết
Minh Tiến
30 tháng 10 2023 lúc 23:08

giúp lẹ với mọi người ơi

Coin Hunter
31 tháng 10 2023 lúc 12:55

 

Bài tham khảo:

Một ngày đẹp trời, tôi cùng gia đình quyết định thực hiện một chuyến thăm quan đến Đền Tiên La ở Thái Bình. Đây là một điểm đến lịch sử với những giá trị văn hóa đặc biệt, nơi mà chúng ta có thể khám phá và tìm hiểu về quá khứ huy hoàng của đất nước.

Đến Đền Tiên La, tôi không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp tráng lệ và tinh tế của kiến trúc cổ kính. Đền được xây dựng từ thời kỳ Tiên Lãng, một thời kỳ lịch sử quan trọng của đất nước. Các công trình kiến trúc ở đây được xây dựng với sự tinh tế và sự chăm chỉ của những người thợ xây dựng thời đó. Từ cổng chào đón đến các ngôi đền và đình, mọi thứ đều mang đậm dấu ấn của nền văn hóa truyền thống. Điểm đặc biệt của Đền Tiên La chính là sự kết hợp giữa kiến trúc và thiên nhiên. Đền được xây dựng trên một ngọn đồi nhỏ, tạo nên một khung cảnh hài hòa và thanh bình. Từ đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn toàn cảnh của vùng đất Thái Bình, với những cánh đồng lúa bát ngát và những con sông êm đềm chảy qua. Cảm giác yên bình và thư thái tràn đầy trong lòng tôi khi đứng trên đỉnh đồi, ngắm nhìn cảnh quan tuyệt đẹp này. Ngoài việc khám phá kiến trúc và thiên nhiên, chúng tôi cũng được tìm hiểu về lịch sử và truyền thống của Đền Tiên La. Hướng dẫn viên tận tâm đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về những câu chuyện và truyền thống lâu đời của đền. Chúng tôi được nghe về những vị thần và anh hùng trong lịch sử, những câu chuyện hào hùng và những giá trị văn hóa truyền thống mà Đền Tiên La mang lại.

Chuyến thăm quan Đền Tiên La ở Thái Bình đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc. Tôi không chỉ được tận hưởng vẻ đẹp của kiến trúc cổ kính và thiên nhiên tuyệt vời, mà còn hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của đất nước. Đây là một trải nghiệm tuyệt vời và tôi mong rằng mọi người cũng có cơ hội khám phá và tìm hiểu về Đền Tiên La ở Thái Bình.

thiên hàn
Xem chi tiết
༺ℬøşş༻AFK_sasuke(box -nv...
27 tháng 2 2019 lúc 19:35

Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ).

Hành chính

Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc là:

    * Thành phố Thái Bình (tỉnh lỵ)
    * Đông Hưng (sáp nhập 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng)
    * Hưng Hà (sáp nhập 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà)
    * Kiến Xương (tách ra từ phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định (cũ). Sau Cách mạng Tháng Tám gọi là huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình)
    * Quỳnh Phụ (sáp nhập 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực)
    * Thái Thụy (sáp nhập 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh)
    * Tiền Hải
    * Vũ Thư (sáp nhập 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì)

Điều kiện tự nhiên

Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.

Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1-2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam.

Thái Bình có bờ biển dài 52 km.

Tỉnh này có 4 con sông khá lớn chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km.

 Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15-20 km.

    * Diện tích: 1.542 km²
    * Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.800 mm
    * Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C
    * Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ
    * Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90%
    * Tọa độ: 20°17′đến 20°44′độ vĩ bắc, 106°06′đến 106°39′độ kinh đông.

Dân số

Năm 2004, Thái Bình có 1.842.800 người với mật độ dân số 1.195 người/km².

Dự báo dân số năm 2010 là 1.902.400 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2006 -2010 là 0.86 %/năm

Thành phần dân số

    * Nông thôn: 74 %
    * Thành thị: 26 %

Phấn đấu đạt tỷ lệ đô thị hoá 22.3% năm 2015, đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 40%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%

Lịch sử

Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỷ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam.

 Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.

Tỉnh Thái Bình được thành lập vào năm thứ hai niên hiệu Thành Thái nhà Nguyễn (1890), từ hai phủ Kiến Xương và Thái Bình của tỉnh Nam Định và lấy thêm huyện Thần Khê của phủ Tiên Hưng thuộc tỉnh Hưng Yên. Huyện Thần Khê lúc đó được nhập vào phủ Thái Bình, sau đó phủ này được đổi tên thành Thái Ninh.

Đến năm 1894, hai huyện Hưng Nhân và Diên Hà, phần còn lại của phủ Tiên Hưng cũng được nhập về tỉnh Thái Bình từ Hưng Yên, và phủ Tiên Hưng được tái lập trực thuộc tỉnh Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình có 3 phủ là: Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng, trong đó bao gồm 12 huyện:

    * Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải, Trực Định (Chân Định) thuộc phủ Kiến Xương (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Trực Định, đặt ở xã Động Trung)
    * Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Vân (Thụy Anh), Thanh Quan thuộc phủ Thái Ninh (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Thanh Quan)
    * Hưng Nhân, Diên Hà, Thần Khê thuộc phủ Tiên Hưng (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Thần Khê)

Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng.

Tỉnh lỵ tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lỵ của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lỵ Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình.

Kinh tế

    * Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2008 đạt gần 10.500 tỷ đồng (chỉ số giá năm 1994),phấn đấu năm 2010 là 11.900 tỷ đồng, nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006 - 2010 bình quân 11%.

    * Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ phấn đấu năm 2010: 34% - 33 % - 33%
 
  * GDP bình quân phấn đấu năm 2010 là 11.2triệu /người

    * Giá trị sản xuât Công nghiệp 6 tháng năm 2009 ước đạt 3322.3 tỷ đồng, tăng 15.02 % so với cùng kỳ 2008. Hiện nay các khu Công nghiẹp trên toàn tỉnh thu hút được 127 dự án, đã có 102 dự án hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất với tổng số vốn thực hiện đầu tư là 4280.3tỷ đồng thu hút 31.514 lao động.

    * Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2010 sẽ là 430triệu USD, năm 2015 là 950triệu USD và năm 2020 là 2300 tỷ USD.

    * Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hôi tới 2010 là 27.550 tỷ đồng

    * Thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008 tăng 28%, ước thực hiện 2.427 tỷ đồng, đạt 74.6% dự toán năm. Theo Thaibinh.gov.vn

    * Trung tâm Điện lực Thái Bình tại xã Mỹ Lộc - Huyện Thái Thụy với vốn đầu tư 2.1 tỷ USD,diện tích 254ha. Dự án có công suất 1800 MW, dự kiến Nhà máy 1 sẽ hoàn thành vào năm 2013 - 2014 và Nhà máy 2 hoàn thành vào năm 2015.

    * Tập đoàn dầu khí quốc gia sẽ triển khai 15 dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trên địa bàn Thái Bình : Dự án Trung tâm Điện Lực, dự án khoan thăm dò dầu khí, dự án xây dựng kho xăng dầu tại Xã Hoà Bình - Vũ Thư quy mô chứa 6000m³, dự án xây dựng hệ thống trạm kinh doanh nhiên liệu, dự án xây dựng văn phòng đại diện Công ty dầu khí Sông Hồng, dự án Trung tâm thương mại Thành Phố Thái Bình, dự án Khách sạn 4 sao (thay thế KS Giao Tế cũ ), dự án dây truyền cán thép...

Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình

    * Khu Công nghiệp Phúc Khánh, diện tích 300ha
    * Khu Công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, diện tích 102ha
    * Khu Công nghiệp Tiền Phong, diện tích 56ha
    * Khu Công nghiệp Tiền Hải, diện tích 128ha
    * Khu Công nghiệp Cầu Nghìn, diện tích 100ha

Ngoài các khu Công nghiệp trên, Chính phủ đã chấp nhận cho phát triển các khu Công nghiệp:

    * Khu Công nghiệp An Hoà, diện tích 400ha
    * Khu Công nghiệp Gia Lễ, diện tích 100ha
    * Khu Công nghiệp Đồng Tu, diện tích 50ha
    * Khu Công nghiệp Thanh Nê, diện tích 50ha
    * Khu Công nghiệp Diêm Điền, diện tích 100ha
    * Khu Công nghiệp Mỹ Xuyên, diện tích 100ha
    * Các điểm Công nghiệp tại các huyện, diện tích 235ha

Công ty Bất động sản Dầu khí đang lập kế hoạch đầu tư Khu Công Nghiệp Minh Hoà với diện tích 500ha và 40ha đô thị kèm theo chia làm 2 giai đoạn. Hiện nay đã hoàn thành quy hoạch 1/2000, năm 2010 triển khai hạ tầng, năm 2011 thu hút đầu tư

Tài nguyên

Các khoáng sản chính:

    * Khí mỏ: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác hàng năm vài chục triệu m³ khí thiên nhiên. Tháng 5, 6 năm 2003, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã tiến hành nổ địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ trữ lượng ước tính 7 tỷ m³.

   * Nước khoáng: Mỏ Tiền Hải ở độ sâu 450 m có trữ lượng khoảng 12 triệu m³, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít với các nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải.
 
         o Nước khoáng nóng: Đã thăm dò và phát hiện ở xã Duyên Hải huyện Hưng Hà mỏ nước nóng 57 °C ở độ sâu 50 m và nước nóng 72 °C ở độ
sâu 178 m đang đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh.

    * Than: Có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng với trữ lượng 210 tỷ tấn ( lớn gấp 20 lần trữ lượng than tại Quảng Ninh). Hiện nay Tập đoàn than khoáng sản và Tỉnh Thái Bình đã ký kết thoả thuận phối hợp chỉ đạo và thực hiẹn một số nội dung quan trọng : Gia đoạn 2010 - 2015 triển khai địa chất 24 lỗ khoan, giai đoạn 2015 - 2020 khoan thăm dò địa chất 3600 lỗ khoan.

 Từ 2010 đầu tư thử nghiệm một số dự án khai thác than bằng công nghệ ngầm dưới lòng đất hoặc công nghệ hàm lò tại Tiền Hải và Thái Thụy, mỗi dự án có quy mô công suất 6triệu tấn / năm.

    * Công ty dầu khí Sông Hồng bắt đầu khoan thăm dò khai thác khí than tại giếng khoan Tiền Hải C-08 tại Xá Tây Ninh - Tiền Hải,giếng có độ sâu 1100m.

Giao thông

    * Đường bộ: Quốc lộ 10 sang Nam Định, quốc lộ 39 nối Hưng Yên - Diêm Điền và Hải Phòng; đường 217 sang Hải Dương.

    * Đường thuỷ: Cảng Diêm Điền là cảng quốc gia, đang đầu tư xây dựng để tàu 1000 tấn có thể ra vào.

    * Khởi công xây dựng Cầu Hiệp nối 2 tỉnh Thái Bình và Hải Dương, chiều dài cầu 542.5 m, khổ rộng 12m, tổng mức đầu tư 245.425 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành năm 2010

    * Dự án xây dựng Cầu vượt sông Hồng và đường tuyến đường bộ nối 2 tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình

    * Dự án tuyến đường ôtô cao tốc ven biển đang đựoc chính phủ nghiên cứu khả thi, dự án tại Thái Bình qua 2 huyện : Thái Thụy và Tiền Hải

Văn hóa-xã hội

Giáo dục

Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học. Học sinh ba cấp tương ứng là: 140.967 - 141.004 - 58.848.

Top 100 trường PTTH hàng đầu Việt nam, Thái Bình có 3 trường: Trường Chuyên Thái Bình xếp hạng 21. Trường Nguyễn Du xếp hạng 78, Trường Nguyễn Đức Cảnh xếp hạng 87

Ngoài ra còn có trường đại học:

Đại học Y Thái Bình Thành lập ngày 23/7/1968 theo QĐ 114 / CP.Trường có 409 cán bộ giảng viên và trên 4000 sinh viên/năm.

Đại học Công nghiệp TPHCM - chi nhánh phía Bắc

Cao đẳng: sư phạm,Văn hoá nghệ thuật, Y tế, Sư phạm mầm non, Kinh tế kỹ thuật

Trung cấp và dạy nghề: Nông nghiệp (Quỳnh Côi), công nhân kỹ thuật, công nhân xây dựng, trường đóng tàu...

Văn hóa truyền thống

Có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước "làng Nguyễn" (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư) v.v.

Phát triển mạnh du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, giỗ tổ Đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Đồng Bằng, đền Tiên La, du lịc sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng sâm, Nam Cao ...), du lịch biển (Đồng Châu)

- Từ ngày 14 tháng 10 đến ngày 16 tháng 10 năm 2009, tại Quảng trường 14 tháng 10 Thành phố Thái Bình diễn ra Ngày hội VHTT và DL các tỉnh đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất

Di tích lịch sử

    * Chùa Chành
    * Chùa Keo được xây dựng từ thế kỷ 11 triều nhà Lý
    * Đền Tiên La
    * Đền Đồng Bằng
    * Từ đường Bùi Quang Dũng
    * Từ đường Nguyễn Tông Quai
    * Từ đường Lê Quý Đôn
    * Từ đường Ngô Quang Bích
    * Từ đường Bùi Viện

    * Các đền thờ, lăng mộ, nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà.

    * Ngoài ra còn có các nhà thờ đạo thiên Chúa từ thờ Pháp (nhà thờ Bắc trạch tiền hải)

Danh nhân

    * Hoàng Văn Triệu (huyện Đông Hưng) là người đưa công nghiệp về Thái Bình.

    * Trần Thủ Độ (huyện Hưng Hà) là người có công sáng lập triều Trần.

    * Nguyễn Tông Quai (trước thường đọc là Nguyễn Tông Khuê, huyện Hưng Hà), là thầy học của Lê Quí Đôn, hai lần đi sứ nhà Thanh. Tác phẩm thi ca chính: Sứ Hoa tùng vịnh, Sứ trình tân truyện, Ngũ luân tự, Vịnh sử thi quyển. Được đánh giá là nhà thơ Nôm xuất sắc của thế kỉ 18, có đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển của thơ tiếng Việt, mở đường cho ra sự ra đời của Truyện Kiều và các tác phẩm thơ Nôm thế kỉ 19.
 
   * Lê Quý Đôn (huyện Hưng Hà), Bảng nhãn triều Lê-Trịnh, nhà bác học lớn của Việt Nam, tác giả của Vân Đài loại ngữ có tính chất bách khoa, Phủ biên tạp lục, Đại Việt thông sử (Lê triều thông sử), Quần thư khảo biện, Kiến văn tiểu lục, Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực, Toàn Việt thi lục, Quế Đường văn tập 4 quyển). Lê Quí Đôn thời trẻ có theo học thầy Nguyễn Tông Quai.

    * Quách Đình Bảo (quê xã Thái Phúc huyện Thái Thụy tỉnh [Thái Bình]). Ông đỗ Hoàng Giáp dưới thời vua Lê Thánh Tông và đóng góp lớn trong việc đi nhà Minh, bàn chuyện Chiêm Thành. Ông được phong Thượng thư bộ Lễ kiêm Tả xuân phường, Tả trung doãn, sau sang Thượng thư bộ Hình. Ông có những đóng góp lớn lao của ông trong chiến lược dùng người tài quốc gia. Ông là một thành viên tích cực và là một trong 28 vì tinh tú của Hội Tao Đàn.

    * Chu Đình Ngạn (được vua Lê ban họ, nên sử chép là Lê Đình Ngạn, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Tướng quân dưới triều Lê, có công lập ra làng Trình Phố và phong tục họp chợ Giếng vào Tết âm lịch hàng năm (đến nay, tức năm 2006, qua mấy trăm năm, vẫn được tổ chức).

    * Ngô Quang Bích (sử chép là Nguyễn Quang Bích, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Đỗ Hoàng giáp triều Nguyễn, (là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê), Thượng thư bộ Lễ, Hiệp thống Bắc kỳ quân vụ đại thần, Sơn phòng sứ Hưng Hóa (Phú Thọ). Văn thân chống Pháp tại Phú Thọ, đồng thời là một nhà thơ.

    * Bùi Viện (người cùng làng với Nguyễn Quang Bích, tức làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Trung xã An Ninh huyện Tiền Hải). Với sự tiến cử của Doãn Khuê, ông đã có công xây dựng Ninh Hải (lúc đó thuộc Hải Dương) thành hải cảng trọng yếu, vào cuối thời Tự Đức, với cái tên mới là Hải Phòng (Hải trấn phòng thủ). Ông là một trong những nhà cải cách xã hội hiếm hoi cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam, đặc biệt là trong lực lượng hải quân nhà Nguyễn, ông còn là nhà ngoại giao - sứ thần Việt Nam đầu tiên đến Mỹ.)

    * Hoàng Văn Thái (huyện Tiền Hải, Đại tướng. Sinh trưởng ở làng An Khang, là làng ở ngay bên cạnh làng Trình Phố nói trên)

    * Phạm Tuân (huyện Kiến Xương, Anh hùng, người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ, và có công đầu trong việc hạ máy bay B52 của Mĩ. Cựu học sinh trường cấp ba Tây Tiền Hải)

    * Nguyễn Mậu Kiến (huyện Kiến Xương, Chí sĩ chống Pháp)

    * Doãn Uẩn (làng Ngoại Lãng, Song lãng, huyện Vũ Thư, An tây mưu lược tướng, cùng An tây trí dũng tướng Nguyễn Tri Phương đánh thắng Xiêm la (Thái Lan), bình định Cao Miên, giữ yên bờ cõi tây nam, năm 1845. Binh bộ thượng thư, được phong tước Tuy Tĩnh tử, Tổng đốc An Hà (Hà Tiên và An Giang) năm 1847 đến 1850.)

    * Doãn Khuê (làng Ngoại Lãng, Song lãng, Vũ Thư, em họ của Doãn Uẩn. Ông đỗ tiến sĩ triều Nguyễn năm 1838, Đốc học Nam Định kiêm Doanh điền sứ và Hải phòng sứ, cùng Nguyễn Mậu Kiến, là những người đầu tiên lãnh đạo chống Pháp (năm 1873) trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.)

    * Vũ Ngọc Nhạ (Nhà tình báo)
 
   * Bút Ngữ (huyện Vũ Thư, Nhà văn, tác giả bài ca dao mới "Làm mưa" in trong sách tiểu học, và các tiểu thuyết hay tập truyện ngắn như "Pháo đài đồng bằng", "Chuyện ở xóm chài", "Những ngày nước cường". Cũng như Chu Văn (tác giả của tiểu thuyết "Bão biển"), ông là một trong những nhà văn lớn hoạt động tại địa phương của vùng Thái Bình - Nam Định thời xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước đây. Nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình)

    * Nguyễn Bảo (Nhà thơ)

    * Lâm Đức Thụ (huyện Kiến Xương, tức Nguyễn Công Viễn, là đồng chí hoạt động cùng Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc, mất năm 1949 tại quê nhà)

    * Nguyễn Thị Chiên (huyện Kiến Xương, Anh hùng tay không bắt sống giặc Pháp)

    * Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (Tu sĩ, nhà nghiên cứu Hán học và Phật học, tác giả của từ điển nổi tiếng "Từ điển Hán Việt Thiều Chửu", mất trong cách mạng ruộng đất)

    * Lại Ngọc Cang (nhà nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học Hán Nôm, như Truyện Kiều, Hoa tiên..., ông tự vẫn)

    * Nguyễn Hữu Đang (huyện Kiến Xương, chiến sĩ cách mạng, là trưởng ban tổ chức ngày tuyên bố độc lập 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau vì liên quan đến vụ án Nhân văn Giai phẩm mà bị treo bút, giam lỏng trong mấy chục năm liền. Nay đã được khôi phục, đánh giá lại trong tinh thần đổi mới).

    * Trần Độ (huyện Tiền Hải, Trung tướng, nhà văn, nhà hoạt động dân chủ)

    * Nguyễn Đức Cảnh (huyện Thái Thụy, chiến sĩ cách mạng)

    * Đặng Kim Giang (huyện Kiến Xương, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam. Là chủ nhiệm cung cấp, một trong bốn thành viên của Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên. Chịu trách nhiệm đảm bảo quân lương, súng đạn cho chiến dịch Điện Biên Phủ.)
 
   * Tạ Minh Sơn (huyện Thái Thuỵ, Thái Bình) PGS. Tiến Sĩ Tạ Minh Sơn, Ngày tháng năm sinh: 10/12/1945. ông nguyên lạ viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam

    * Vua Bếp Nghệ Nhân Đinh Bá Châu ông là người được ví là vua bếp của Việt Nam

    * Vũ Văn Tiền quê Tiền Hải, Thái Bình được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, ông là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Tổng Giám đốc Cty XNK thương mại GELEXIMCO

    * Vũ Quang Hội, ông cũng được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh Bitexco, chủ các toà nhà The Manor, The Garden, Tòa nhà Financial Tower...

Kẹt ko lông
27 tháng 2 2019 lúc 19:36

Vì dao ở đó khá bén nên thái rất phê

Theo Tôi bít ở đóa còn làm gốm,đặc sản là bình

Từ đó suy ra tỉnh thái bình

#Kẹt#

Hok tốt

thiên hàn
27 tháng 2 2019 lúc 20:20

Cái tôi cần là 1 bài văn .Ok ? Không phải là những câu nói vớ vẩn với những gì được sao y nguyên trên mạng 

Sky Trần
Xem chi tiết
Lưu Hạ Vy
10 tháng 2 2017 lúc 19:43

Đền Trần được xây dựng trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỷ thứ 15. Đền Trần Nam Định gồm 3 công trình kiến trúc chính, là đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Cả 3 đền đều có kiến trúc chung và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian, tòa trung đường 5 gian và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn (thiêu hương) và 2 gian tả hữu vu..

Đền Thiên Trường Đền này được xây trên nền Thái miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ họ của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Đền Trần hiện nay được người dân địa phương xây bằng gỗ từ năm Chính Hòa thứ 15 (tức năm 1695). Các năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, đền được mở rộng và xây thêm. Đền Thiên Trường hiện tại gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, siêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Tiền đường của đền Thiên Trường gồm 5 gian, dài 13m. Tại đây có đặt ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Sau tiền đường là trung đường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần. Tuy nhiên, không có tượng thờ mà chỉ có bài vị. Trước cửa trung đường có ba cỗ ngai là nơi thờ bái vọng các vị hoàng đế. Sau trung đường là chính tẩm gồm 3 gian. Đây là nơi thờ 4 vị thủy tổ của họ Trần và các phu nhân chính của họ ở gian giữa. Các hoàng phi của nhà Trần cũng được đặt bài vị thờ ở 2 gian trái, phải. Tòa thiêu hương (hay kinh đàn) là nơi đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Có ban thờ riêng cho các quan văn, quan võ... Đền Cố Trạch Đền Cố Trạch được xây vào năm 1894. Theo bia Trùng kiến Hưng Đạo thân vương cố trạch bi kí, thì lúc tu sửa đền Thiên Trường năm 21 đời Tự Đức (năm 1868), người ta đào thấy ở phía Đông đền Thiên Trường một mảnh bia vỡ có ghi chữ Hưng Đạo thân vương cố trạch (nhà cũ của Hưng Đạo thân vương). Đền Cố Trạch đặt bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Tiền đường của đền Cố Trạch là nơi đặt bài vị của 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo (đó là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa). Thiêu hương (kinh đàn) là nơi đặt long đình trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Bên trái đặt bài vị các quan văn. Bên phải đặt bài vị của các quan võ. Gian tả vu là nơi đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các bài vị văn thần triều Trần. Gian hữu vu là nơi đặt bài vị võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Tòa trung đường là nơi đặt bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, bài vị của 4 người con trai, của Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Tòa chính tẩm là nơi đặt bài vị của cha và mẹ Trần Hưng Đạo, của Trần Hưng Đạo và vợ, 4 người con trai và 4 người con dâu của Trần Hưng Đạo, của con gái. Đền Trùng Hoa Đền Trùng Hoa mới được Chính phủ và tỉnh Nam Định xây dựng mới từ năm 2000. Đền được xây trên nền cung Trùng Hoa xưa-nơi các đương kim hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có nhiều pho tượng bằng đồng của các hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương là nơi đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Lễ hội Lễ hội đền Trần diễn ra vào ngày 15 tháng Giêng hằng năm. Lễ hội được mở đầu bằng Lễ khai ấn từ giờ Tý. Thời gian gần đây, ngày càng nhiều du khách đến hành lễ tại Đền Trần vào dịpđầu xuân để xin, hoặc mua ấn, với mong ước sẽ được thăng tiến, thành đạt trong sự nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của khách thập phương về với cội nguồn, năm nay Lễ khai ấn Đền Trần được tổ chức ở hai nơi: Đền Trần Nam Định và Đền Trần huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, cùng thời điểm vào giờ Tý ngày 15 tháng Giêng, năm Tân Mão ở Đền Trần, thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam cũng diễn ra lễ hội phát lương (gồm thóc, ngô, đỗ...) mong một năm bình an, no đủ cho đất nước, cho mọi nhà. Chỉ còn chưa đầy 20 giờ nữa là Lễ Khai ấn, Lễ Phát lương của Đền Trần sẽ diễn ra hy vọng lễ hội Đền Trần nói riêng và các lễ hội khác trên cả nước nói chung được tổ chức thành công thực sự có văn hóa, xứng đáng với sự suy tôn, thờ kính của thế hệ hậu duệ với các bậc thánh nhân, tiền bối.Về lễ hội với tấm lòng thành kính và học tập truyền thống văn hoá, lịch sử, tu thân tích đức, không sa vào việc "buôn thần, bán thánh", đốt vàng mã, thắp hương nhiều, không xả rác bừa bãi, không tụ tập tạo thành những điểm tệ nạn, gây rối trật tự an ninh, xã hội tạo nên nét đẹp trong văn hóa lễ hội.
Sky Trần
10 tháng 2 2017 lúc 19:52

thank bạn nhayeu

Trần Việt Hà
Xem chi tiết
Vũ Viết Thành
5 tháng 1 2018 lúc 21:34

Đến lớp cho chép

Lê Thiện Tuấn
5 tháng 1 2018 lúc 19:55

Sông Kinh Thầy hay còn đọc là Kinh Thày, là một phân lưu của sông Thái Bình, nối sông Thái Bình với các sông vùng Đông Bắc Việt Nam.

Pé
7 tháng 1 2018 lúc 19:31

Hệ thống sông Thái Bình là tên gọi của một hệ thống sông gồm sông Thái Bình cùng các phụ lưu và chi lưu của nó. Các phụ lưu gồm sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam ở thượng nguồn với tổng chiều dài khoảng 1.650 km và diện tích lưu vực khoảng 10.000 km². Ngoài ra, hệ thống sông này còn nhận một phần dòng chảy của sông Hồng, để đổ ra biển Đông.

Đỗ Thị Minh Ngọc
Xem chi tiết
ph@m tLJấn tLJ
23 tháng 2 2022 lúc 23:10

Tham khảo :
 Với những công lao mà Phạm Ngũ Lão đã lập được và để tưởng nhớ đến một vị tướng tài danh là người con của quê hương, dân làng Phù Ủng đã lập đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền đất cũ của nhà ông. Đáng tiếc ngôi đền đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1948, chỉ còn lại dấu vết nền móng xưa và hai cột đồng trụ ở hai bên. Từ năm 1990, phục hồi lại ngôi đền, kiến trúc gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung.

Khu chính thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão danh tướng đời Trần, bên tả thờ cha và bên hữu thờ mẹ. Chính điện gồm 5 gian tiền bái, ba gian hậu cung; Lăng thờ Đức tiên công; Khuê Văn Các hình bát giác. Khu trong là nơi thờ Tĩnh Tuệ công chúa và Lăng Vũ Hồng Lương được làm bằng đá xanh với kiến trúc nghệ thuật chạm khắc đá nổi tiếng thời Hậu Lê

Đền thờ chính được khắc 4 chữ Hán đại tự là “Đông A điện soái” tức là điện thờ tướng nhà Trần, bởi chữ “Đông” kết hợp với chữ “A” thành chữ Trần. Khu đền thờ có nhiều cây cổ thụ tạo nên vẻ trầm mặc u tịch khi vắng khách viếng thăm.

Kiến trúc đền, gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung. Xung quanh ngôi đền, là cụm di tích lịch sử văn hoá gồm nhiều đền chùa, miếu thờ các bậc tiền bối họ Phạm, đền thờ quận chúa Thuỷ Tiên – con gái duy nhất của ông và chùa thờ Phật.

Hội chính đền Ủng tổ chức từ 12-15 tháng Giêng âm lịch, kỷ niệm ngày ra quân của Phạm Ngũ Lão. Trước cách mạng Tháng Tám, triều đình đều cử các quan về tế lễ. Những năm gần đây UBND huyện Ân Thi tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm.

Khu vực ngoài đền, trước đây tổ chức vật cù. Tương truyền vật cù được Phạm Ngũ Lão dùng để quân sỹ rèn luyện sức khỏe và vui chơi. Cù hình tròn, làm bằng gỗ vuông sơn đỏ. Sân chơi là một bãi rộng chia làm 2 bên đông và tây, giữa sân kẻ một vạch ngang, chính giữa vạch đào một lỗ đặt quả dầu, hai đầu sân mỗi bên đào một lỗ. Mỗi đội có 8 quân và 1 tổng, đầu chít khăn, đóng khố. Mỗi đội đóng khố một màu khác nhau. Trước khi chơi, hai đội xếp thành hai hàng làm lễ trước cửa đền. Trọng tài cầm quả cầu đặt ở hố giữa sân, phát hiệu lệnh, hai bên giành nhau cướp bỏ vào lỗ của đối phương, bên nào cho vào lỗ của bên kia là thắng cuộc.

Hằng ngày, mặc dù không phải là ngày lễ chính của đền Phù Ủng, nhưng ngôi đền vẫn được nhân dân khắp nơi tới chiêm bái tham quan và dâng hương bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong cho gia đình được bình an khang thái. Ngoài việc tham quan đền chính thờ Phạm Ngũ Lão, nhân dân còn tham quan các đền thờ cha và thờ mẹ đều thuộc khu di tích đền Phù Ủng

Đỗ Thị Minh Ngọc
Xem chi tiết
ph@m tLJấn tLJ
23 tháng 2 2022 lúc 23:14

gửi tiếp :D 
TK :
 Với những công lao mà Phạm Ngũ Lão đã lập được và để tưởng nhớ đến một vị tướng tài danh là người con của quê hương, dân làng Phù Ủng đã lập đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền đất cũ của nhà ông. Đáng tiếc ngôi đền đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1948, chỉ còn lại dấu vết nền móng xưa và hai cột đồng trụ ở hai bên. Từ năm 1990, phục hồi lại ngôi đền, kiến trúc gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung.

Khu chính thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão danh tướng đời Trần, bên tả thờ cha và bên hữu thờ mẹ. Chính điện gồm 5 gian tiền bái, ba gian hậu cung; Lăng thờ Đức tiên công; Khuê Văn Các hình bát giác. Khu trong là nơi thờ Tĩnh Tuệ công chúa và Lăng Vũ Hồng Lương được làm bằng đá xanh với kiến trúc nghệ thuật chạm khắc đá nổi tiếng thời Hậu Lê

Đền thờ chính được khắc 4 chữ Hán đại tự là “Đông A điện soái” tức là điện thờ tướng nhà Trần, bởi chữ “Đông” kết hợp với chữ “A” thành chữ Trần. Khu đền thờ có nhiều cây cổ thụ tạo nên vẻ trầm mặc u tịch khi vắng khách viếng thăm.

Kiến trúc đền, gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung. Xung quanh ngôi đền, là cụm di tích lịch sử văn hoá gồm nhiều đền chùa, miếu thờ các bậc tiền bối họ Phạm, đền thờ quận chúa Thuỷ Tiên – con gái duy nhất của ông và chùa thờ Phật.

Hội chính đền Ủng tổ chức từ 12-15 tháng Giêng âm lịch, kỷ niệm ngày ra quân của Phạm Ngũ Lão. Trước cách mạng Tháng Tám, triều đình đều cử các quan về tế lễ. Những năm gần đây UBND huyện Ân Thi tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm.

Khu vực ngoài đền, trước đây tổ chức vật cù. Tương truyền vật cù được Phạm Ngũ Lão dùng để quân sỹ rèn luyện sức khỏe và vui chơi. Cù hình tròn, làm bằng gỗ vuông sơn đỏ. Sân chơi là một bãi rộng chia làm 2 bên đông và tây, giữa sân kẻ một vạch ngang, chính giữa vạch đào một lỗ đặt quả dầu, hai đầu sân mỗi bên đào một lỗ. Mỗi đội có 8 quân và 1 tổng, đầu chít khăn, đóng khố. Mỗi đội đóng khố một màu khác nhau. Trước khi chơi, hai đội xếp thành hai hàng làm lễ trước cửa đền. Trọng tài cầm quả cầu đặt ở hố giữa sân, phát hiệu lệnh, hai bên giành nhau cướp bỏ vào lỗ của đối phương, bên nào cho vào lỗ của bên kia là thắng cuộc.

Hằng ngày, mặc dù không phải là ngày lễ chính của đền Phù Ủng, nhưng ngôi đền vẫn được nhân dân khắp nơi tới chiêm bái tham quan và dâng hương bày tỏ lòng biết ơn và cầu mong cho gia đình được bình an khang thái. Ngoài việc tham quan đền chính thờ Phạm Ngũ Lão, nhân dân còn tham quan các đền thờ cha và thờ mẹ đều thuộc khu di tích đền Phù Ủng.