Bạn chưa đăng nhập. Vui lòng đăng nhập để hỏi bài

Những câu hỏi liên quan
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
15 tháng 9 2018 lúc 2:04

- Hoài Thanh trong nhận định về thơ Thế Lữ "Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng… không thể cưỡng được" nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ tinh tế, điêu luyện, đạt tới mức chính xác cao.

    + Thế Lữ sử dụng từ ngữ trong bài Nhớ rừng xuất phát từ sự thôi thúc của tâm trạng khinh ghét, căm phẫn cuộc sống hiện thời.

    + "chữ bị xô đẩy" bắt nguồn từ giọng điệu linh hoạt lúc dồn dập oai hùng, lúc trầm lắng suy tư.

    + "dằn vặt bởi sức mạnh phi thường" : khao khát tự do, vượt thoát khỏi thực tại tầm thường, tù túng.

    + Ngôn ngữ có chiều sâu: tạo dựng được ba hình tượng với nhiều ý nghĩa ( con hổ, vườn bách thú, núi rừng).

    + Thế Lữ cũng là cây bút tiên phong cho phong trào Thơ Mới vì thế sự thôi thúc vượt thoát khỏi những chuẩn mực cũ giúp ông chủ động khi sử dụng ngôn từ.

Đỗ Hà Linh
Xem chi tiết
Bạn nữ dấu tên
3 tháng 1 2018 lúc 17:10

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ - ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt - làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ - nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’...

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém... ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

- '... Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

- '... Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

- '... Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

- '... Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’...

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’... )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm... thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’..., ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’... )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.

Đỗ Thị Ánh Nguyệt
Xem chi tiết
Thiên Tuyết Linh
28 tháng 2 2017 lúc 18:45

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ - ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt - làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ - nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’...

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém... ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

- '... Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

- '... Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

- '... Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

- '... Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’...

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’... )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm... thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’..., ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’... )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.

Trần Thị Hồng Nhung
28 tháng 2 2017 lúc 19:23

Nhà phê bình Hoài Thanh đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh khồng thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Để tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt, nhà thơ dùng những điệp từ "nào đâu..", "đâu.." thể hiện nỗi tiếc nuối khôn nguôi của hổ về quá khứ vinh quang, oai hùng. Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình.

Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên:

Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trổng

Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Câu thơ: "Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng" được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau - điều đó như mô phỏng sự đơn điệu, tầm thường của cảnh vật.

Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng diệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.



Nguyễn Ngọc Tuyết Nhung
1 tháng 3 2017 lúc 11:45

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ - ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt - làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ - nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’...

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém... ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

- '... Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

- '... Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

- '... Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

- '... Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’...

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’... )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm... thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’..., ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’... )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.

Nguồn:
Mạc Hy
Xem chi tiết
Nguyễn Huyền Trâm
4 tháng 2 2020 lúc 19:55

Tham khảo :

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ - ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt - làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ - nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’...

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém... ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

- '... Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

- '... Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

- '... Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

- '... Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’...

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’... )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm... thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’..., ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’... )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.

Khách vãng lai đã xóa
Thúy Vy
4 tháng 2 2020 lúc 20:37

Nhắc về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh đã từng nhận xét: "Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng lại được". Qua nhận định ấy, Hoài Thanh muốn khẳng định những giá trị về nghệ thuật của bài thơ Nhớ rừng. Thật vậy, những giá trị nghệ thuật chính là một điểm đặc sắc tạo ra khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc khi thưởng thức bài thơ này của Thế Lữ.

Trước hết, người đọc hình dung được một khung cảnh hùng vĩ, những âm thanh dữ dội của đại ngàn: cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già; tiếng gió ngàn, giọng nguồn thét núi; thét khúc trường ca dữ dội, đêm vàng bên bờ suối.... Nhịp điệu của bài thơ được tạo ra bởi những điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc: Với tiếng...; Nào đâu...; Nơi ta... Giọng điệu bài thơ được tạo nên bởi những động từ mạnh, những biện pháp đối trong các câu thơ sóng đôi...
Khách vãng lai đã xóa
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Trần Nguyễn Bảo Quyên
27 tháng 4 2017 lúc 8:45

Câu hỏi 1. Bài thơ được tác giả ngắt thành 5 đoạn, hãy cho biết nội dung mỗi đoạn.

Bài thơ được tác giá chia thành 5 đoạn :

- Đoạn 1 (từ đấu đến “Với cặp báo chuổng bốn vô tư lự”) : Lòng uất hận, căm hờn, ngao ngán vì bị giam cấm.

- Đoạn 2 (từ “Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ” đến “Giữa chôn thảo hoa không tên, không tuổi”): Nỗi nhớ núi rừng.

- Đoạn 3 (từ “Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối” đến Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”): Nỗi nhớ vể một thời oanh liệt, tự do.

- Đoạn 4 (từ “Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu” đến “Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”): Sự căm ghét khu vườn nhỏ hẹp, giả dối.

- Đoạn 5 (còn lại): Giấc mơ và niềm khao khát được trở lại vùng vẫy chốn rừng xưa.

Câu hỏi 2. Trong bài thơ có hai cảnh được miêu tả đầy ấn tượng : cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4) ; cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” (đoạn 2 và đoạn 3).

a) Hãy phân tích từng cảnh tượng.

b) Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3. Phân tích để làm rỏ cái hay của hai đoạn thơ này.

c) Qua sự đối lập sâu sác giữa hai cánh tượng nêu trên, tâm sự con hổ ở vườn bách thú được biểu hiện như thế nào ? Tâm sự ấy có gì gần gũi với tâm sự người dân Việt Nam đương thời ?

a) Trong bài thơ có hai cảnh tượng tương phản : cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4) và cánh núi non hùng vĩ, nơi con hổ từng sống (đoạn 2 và đoạn 3). Đó là sự tương phản giữa cảnh thực tại và cảnh trong dĩ vãng, mộng tưởng.

- Cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4). Đoạn 1 chủ yếu miêu tả tâm trạng ngao ngán, câm tức của con hổ khi sa cơ, lâm vào cảnh ngộ tù hãm trong vườn bách thú. Con hổ nhục nhã, chán ngán khi phải “làm trò lạ mắt”, làm “thứ đồ chơi” của đám người nhỏ bé, ngạo mạn; bị coi ngang hàng với bọn “dở hơi”, “vô tư lự”. Con hổ không có cách nào đê thoát khỏi sự tù túng, tầm thường, chán ngắt, đành phải bất lực, buông xuôi, mặc cho sô phận, “nằm dài, trông ngày tháng dần qua”. Đoạn 4 miêu tả cảnh vườn bách thú qua cái nhìn của chúa sơn lâm. Đó là một nơi đơn điệu, buồn chán, “không đòi nào thay đổi”. Cảnh ở đây đã được sửa sang dưới bàn tay của con người. Nó được bắt chước cảnh rừng núi “cao cả”, “âm u”, “bí hiểm” một cách “tầm thường”, “thấp kém” và “giả dối”: Hoa chăm, cỏ xén, lôi phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suôi, chẳng thông dòng; Len dưới nách những mô gồ thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không hí hiểm...

- Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ của mình (đoạn 2 và đoạn 3). Đoạn 2 miêu tả cảnh thiên nhiên núi rừng đại ngàn, hoang dã, cái gì cũng lớn lao và phi thường : “bóng cả, cây già”, “tiếng gió gào ngàn”, “nguồn hét núi”, “lá gai, cỏ sắc”, “thảo hoa”. Trên cái nền hoang sơ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con hổ - vị chúa tể của muôn loài hiện lên với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt : một thuở “tung hoành, hống hách”, “bước chùn lên, dõng dạc, đường hoàng”, “tấm thân như sóng cuộn”, đôi “mắt thần” sáng “quắc”... Đoạn 3 là hình ảnh núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Đó là cảnh thơ mộng, lãng mạn “những đêm vàng bên bờ suối”, con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Đó là cảnh của những ngày khó khăn “mưa chuyển bốn phương ngàn”, con hổ vẫn mang dáng vẻ của một bậc đế vương “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Đó là cảnh của những ngày vui, trong sáng “bình minh cây xanh nắng gội”, rộn rã “tiếng chim ca”, con hổ trong giấc ngủ bình yên. Đó là những cảnh dữ dội “chiểu lênh láng máu sau rừng”, con hổ đợi mặt trời “chết” để chiếm lấy “phần bí mật” trong vũ trụ. Núi rừng, nơi con hổ sống có vẻ đẹp hoang sơ, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Ở đây, con hổ hiện lên với một tư thế lẫm liệt, kiêu hùng.

b) Đoạn 2 và đoạn 3 là những đoạn hay nhất trong bài thơ. Từ ngữ, hình ảnh và giọng điệu thơ trong hai đoạn này là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả. Cảnh dĩ vãng huy hoàng hiện lên trong nổi nhớ da diết đến đớn đau của con hổ. Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về cái thuở “ngày xưa” ấy được diễn tả bằng các từ ngữ được lặp di lập lại nhiều lần : nhớ, nào đâu, đâu những; bằng tiếng than u uất với một thán từ và câu hỏi đầy nuối tiếc “Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”. Hình ảnh núi rừng đại ngàn hoang vu, hùng vĩ hiện ra qua các hình ảnh chọn lọc : bóng cả, củy già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc, đêm vàng bờ suối, cây xanh nắng gội, ngày mưa chuyên bốn phương ngàn... Hình ảnh “những đêm vàng bên bờ suối” và con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” là một hình ảnh vừa hoang dại, vừa diễm lệ, huyền ảo, đầy chất thơ. Hình ảnh “những chiểu lênh láng máu sau rừng’ và con hổ “đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” là hình ảnh vừa man rợ vừa kiêu hùng. Trên cái nền cao cả và âm u ấy là hình ảnh con hổ oai phong, lẫm liệt. Hình ảnh ấy được diễn tà bằng những từ ngữ mạnh, sắc : tung hoành, hống hách, dõng dạc, dường hoàng, cuộn, quắc... Trong hai đoạn thơ này, tác giả sử dụng nhiễu từ Hán Việt, sắc thái nghĩa trang trọng của lớp từ Hán Việt đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đáng kể : khắc họa đậm nét hơn sự cao cá, lớn lao, phi thường của núi rừng và con hổ. Nhạc điệu bài thơ phong phú, giàu sức biểu cảm, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt. Giọng thơ khi u uất, bực dọc, dằn vặt, khi say sưa, tha thiết, hùng tráng.

c) Sống trong canh giam cẩm chật chội, ngột ngạt, con hổ nhớ tiếc thời sống hiẽn ngang, oanh liệt, làm chúa tê muôn loài ở chốn rừng xanh. Con hổ đau buồn, phẫn uất, căm giận vì bị giam hãm trong cũi sắt, xung quanh toàn là những sự giả tạo, chán ngát. Tâm trạng của con hổ cũng là tâm trạng của nhà thơ. Nhà thơ bất hòa sâu sắc với thực tại cuộc sống, một xã hội tù túng, ngột ngạt, xấu xa và niềm khát khao mãnh liệt muốn được sống tự do; nhưng vì bát lực, chỉ biết tìm cách thoát li thực tại ấy bằng những mộng tưởng, đắm chìm vào đời sống nội tâm. Đây cũng chính là tâm trạng chung của người dân Việt Nam sống trong cảnh nô lệ, nhớ tiếc một “thời oanh liệt” với những chiến công chống giặc ngoại xâm hiển hách của dân tộc.

Câu hỏi 3. Căn cứ vào nội dung bài thơ, hãy giải thích vì sao tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”. Việc mượn lời đó có tác dụng thế nào trong việc thê hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ ?

Tác giá mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để gián tiếp nói lên tám sự của một lớp thanh niên trí thức yêu nước, khao khát tự do, bất hòa sâu sắc với xã hội thực tại, một xà hội thực dân, tay sai tù túng, giả dối, ngột ngạt lúc bấy giờ. Đấy cũng là tâm sự của người dân Việt Nam nói chung trong cảnh nước mất, nhà tan. Những điều tâm sự ấy không được nói thẳng mà phải nói quanh co, bóng bẩy, kín đáo để tránh sự kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân và tay sai. Tinh cảnh và tâm sự của con hổ có những nét tương đồng với tình cảnh và tâm sự của người dân mất nước, mất tự do. Mượn lời con hổ sẽ rất thuận lợi cho việc thê hiện nội dung và cảm xúc của nhà thơ.

Câu hỏi 4. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ : “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tường chừng thấy những chữ bị xô đẩy. bị dàn vật bỡi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điêu khiển dội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cường được” (Thi nhân Việt Nanì, Sđd). Em hiểu như thế nào về ý kiến đó ? Qua bài thơ, hày chứng minh.

Trong nhận xét của Hoài Thanh có hai ý: thơ Thế Lữ cảm xúc mãnh liệt, tuôn trào (“tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”) và việc sử dụng ngôn ngữ của ông đê biểu hiện nội dung một cách linh hoạt, chính xác, hiệu quả (“Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thổ cưỡng được”).

Cảm xúc trào sôi, bút pháp làng mạn, từ ngừ, hình ảnh, ủm điệu bài thơ Nhớ rừng thế hiện rất rõ điều đã nói ở trên.

Bích Ngọc Huỳnh
2 tháng 1 2018 lúc 9:37

Câu hỏi 1. Bài thơ được tác giả ngắt thành 5 đoạn, hãy cho biết nội dung mỗi đoạn.

Bài thơ được tác giá chia thành 5 đoạn :

- Đoạn 1 (từ đấu đến “Với cặp báo chuổng bốn vô tư lự”) : Lòng uất hận, căm hờn, ngao ngán vì bị giam cấm.

- Đoạn 2 (từ “Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ” đến “Giữa chôn thảo hoa không tên, không tuổi”): Nỗi nhớ núi rừng.

- Đoạn 3 (từ “Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối” đến Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”): Nỗi nhớ vể một thời oanh liệt, tự do.

- Đoạn 4 (từ “Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu” đến “Của chốn ngàn năm cao cả, âm u”): Sự căm ghét khu vườn nhỏ hẹp, giả dối.

- Đoạn 5 (còn lại): Giấc mơ và niềm khao khát được trở lại vùng vẫy chốn rừng xưa.

Câu hỏi 2. Trong bài thơ có hai cảnh được miêu tả đầy ấn tượng : cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4) ; cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” (đoạn 2 và đoạn 3).

a) Hãy phân tích từng cảnh tượng.

b) Nhận xét việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3. Phân tích để làm rỏ cái hay của hai đoạn thơ này.

c) Qua sự đối lập sâu sác giữa hai cánh tượng nêu trên, tâm sự con hổ ở vườn bách thú được biểu hiện như thế nào ? Tâm sự ấy có gì gần gũi với tâm sự người dân Việt Nam đương thời ?

a) Trong bài thơ có hai cảnh tượng tương phản : cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4) và cánh núi non hùng vĩ, nơi con hổ từng sống (đoạn 2 và đoạn 3). Đó là sự tương phản giữa cảnh thực tại và cảnh trong dĩ vãng, mộng tưởng.

- Cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị giam cầm (đoạn 1 và đoạn 4). Đoạn 1 chủ yếu miêu tả tâm trạng ngao ngán, câm tức của con hổ khi sa cơ, lâm vào cảnh ngộ tù hãm trong vườn bách thú. Con hổ nhục nhã, chán ngán khi phải “làm trò lạ mắt”, làm “thứ đồ chơi” của đám người nhỏ bé, ngạo mạn; bị coi ngang hàng với bọn “dở hơi”, “vô tư lự”. Con hổ không có cách nào đê thoát khỏi sự tù túng, tầm thường, chán ngắt, đành phải bất lực, buông xuôi, mặc cho sô phận, “nằm dài, trông ngày tháng dần qua”. Đoạn 4 miêu tả cảnh vườn bách thú qua cái nhìn của chúa sơn lâm. Đó là một nơi đơn điệu, buồn chán, “không đòi nào thay đổi”. Cảnh ở đây đã được sửa sang dưới bàn tay của con người. Nó được bắt chước cảnh rừng núi “cao cả”, “âm u”, “bí hiểm” một cách “tầm thường”, “thấp kém” và “giả dối”: Hoa chăm, cỏ xén, lôi phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suôi, chẳng thông dòng; Len dưới nách những mô gồ thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không hí hiểm...

- Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ của mình (đoạn 2 và đoạn 3). Đoạn 2 miêu tả cảnh thiên nhiên núi rừng đại ngàn, hoang dã, cái gì cũng lớn lao và phi thường : “bóng cả, cây già”, “tiếng gió gào ngàn”, “nguồn hét núi”, “lá gai, cỏ sắc”, “thảo hoa”. Trên cái nền hoang sơ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con hổ - vị chúa tể của muôn loài hiện lên với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt : một thuở “tung hoành, hống hách”, “bước chùn lên, dõng dạc, đường hoàng”, “tấm thân như sóng cuộn”, đôi “mắt thần” sáng “quắc”... Đoạn 3 là hình ảnh núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Đó là cảnh thơ mộng, lãng mạn “những đêm vàng bên bờ suối”, con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Đó là cảnh của những ngày khó khăn “mưa chuyển bốn phương ngàn”, con hổ vẫn mang dáng vẻ của một bậc đế vương “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Đó là cảnh của những ngày vui, trong sáng “bình minh cây xanh nắng gội”, rộn rã “tiếng chim ca”, con hổ trong giấc ngủ bình yên. Đó là những cảnh dữ dội “chiểu lênh láng máu sau rừng”, con hổ đợi mặt trời “chết” để chiếm lấy “phần bí mật” trong vũ trụ. Núi rừng, nơi con hổ sống có vẻ đẹp hoang sơ, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Ở đây, con hổ hiện lên với một tư thế lẫm liệt, kiêu hùng.

b) Đoạn 2 và đoạn 3 là những đoạn hay nhất trong bài thơ. Từ ngữ, hình ảnh và giọng điệu thơ trong hai đoạn này là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả. Cảnh dĩ vãng huy hoàng hiện lên trong nổi nhớ da diết đến đớn đau của con hổ. Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về cái thuở “ngày xưa” ấy được diễn tả bằng các từ ngữ được lặp di lập lại nhiều lần : nhớ, nào đâu, đâu những; bằng tiếng than u uất với một thán từ và câu hỏi đầy nuối tiếc “Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”. Hình ảnh núi rừng đại ngàn hoang vu, hùng vĩ hiện ra qua các hình ảnh chọn lọc : bóng cả, củy già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc, đêm vàng bờ suối, cây xanh nắng gội, ngày mưa chuyên bốn phương ngàn... Hình ảnh “những đêm vàng bên bờ suối” và con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” là một hình ảnh vừa hoang dại, vừa diễm lệ, huyền ảo, đầy chất thơ. Hình ảnh “những chiểu lênh láng máu sau rừng’ và con hổ “đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” là hình ảnh vừa man rợ vừa kiêu hùng. Trên cái nền cao cả và âm u ấy là hình ảnh con hổ oai phong, lẫm liệt. Hình ảnh ấy được diễn tà bằng những từ ngữ mạnh, sắc : tung hoành, hống hách, dõng dạc, dường hoàng, cuộn, quắc... Trong hai đoạn thơ này, tác giả sử dụng nhiễu từ Hán Việt, sắc thái nghĩa trang trọng của lớp từ Hán Việt đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đáng kể : khắc họa đậm nét hơn sự cao cá, lớn lao, phi thường của núi rừng và con hổ. Nhạc điệu bài thơ phong phú, giàu sức biểu cảm, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt. Giọng thơ khi u uất, bực dọc, dằn vặt, khi say sưa, tha thiết, hùng tráng.

c) Sống trong canh giam cẩm chật chội, ngột ngạt, con hổ nhớ tiếc thời sống hiẽn ngang, oanh liệt, làm chúa tê muôn loài ở chốn rừng xanh. Con hổ đau buồn, phẫn uất, căm giận vì bị giam hãm trong cũi sắt, xung quanh toàn là những sự giả tạo, chán ngát. Tâm trạng của con hổ cũng là tâm trạng của nhà thơ. Nhà thơ bất hòa sâu sắc với thực tại cuộc sống, một xã hội tù túng, ngột ngạt, xấu xa và niềm khát khao mãnh liệt muốn được sống tự do; nhưng vì bát lực, chỉ biết tìm cách thoát li thực tại ấy bằng những mộng tưởng, đắm chìm vào đời sống nội tâm. Đây cũng chính là tâm trạng chung của người dân Việt Nam sống trong cảnh nô lệ, nhớ tiếc một “thời oanh liệt” với những chiến công chống giặc ngoại xâm hiển hách của dân tộc.

Câu hỏi 3. Căn cứ vào nội dung bài thơ, hãy giải thích vì sao tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”. Việc mượn lời đó có tác dụng thế nào trong việc thê hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ ?

Tác giá mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để gián tiếp nói lên tám sự của một lớp thanh niên trí thức yêu nước, khao khát tự do, bất hòa sâu sắc với xã hội thực tại, một xà hội thực dân, tay sai tù túng, giả dối, ngột ngạt lúc bấy giờ. Đấy cũng là tâm sự của người dân Việt Nam nói chung trong cảnh nước mất, nhà tan. Những điều tâm sự ấy không được nói thẳng mà phải nói quanh co, bóng bẩy, kín đáo để tránh sự kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân và tay sai. Tinh cảnh và tâm sự của con hổ có những nét tương đồng với tình cảnh và tâm sự của người dân mất nước, mất tự do. Mượn lời con hổ sẽ rất thuận lợi cho việc thê hiện nội dung và cảm xúc của nhà thơ.

Câu hỏi 4. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ : “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tường chừng thấy những chữ bị xô đẩy. bị dàn vật bỡi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điêu khiển dội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cường được” (Thi nhân Việt Nanì, Sđd). Em hiểu như thế nào về ý kiến đó ? Qua bài thơ, hày chứng minh.

Trong nhận xét của Hoài Thanh có hai ý: thơ Thế Lữ cảm xúc mãnh liệt, tuôn trào (“tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”) và việc sử dụng ngôn ngữ của ông đê biểu hiện nội dung một cách linh hoạt, chính xác, hiệu quả (“Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thổ cưỡng được”).

Cảm xúc trào sôi, bút pháp làng mạn, từ ngừ, hình ảnh, ủm điệu bài thơ Nhớ rừng thế hiện rất rõ điều đã nói ở trên.

Trần Yến Nhi
11 tháng 1 2018 lúc 20:57
1. Bài thơ được ngắt làm năm đoạn. Nội dung của đoạn thứ nhất và đoạn thứ tư nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú. Đoạn thứ hai và đoạn thứ ba hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi rừng núi thời oanh liệt. Đoạn thứ năm là hoài niệm nơi rừng núi xưa kia bằng giấc mộng ngàn. 2. a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng. Đoạn thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ. Tuy bị nhốt trong cũi sắt, tuy bị biến thành một thứ đồ chơi lạ mắt, bị xếp cùng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự, nhưng chúa sơn lâm vẫn khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nó căm hờn sự tù túng, nó khinh ghét những kẻ tầm thường. Nó vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống mãi trong tình thương nỗi nhớ rừng. Đoạn thơ thứ tư thể hiện cảnh vườn bách thú dưới con mắt của con hổ, đó là cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối, nhàm chán "không đời nào thay đổi". Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, không thay đổi và tù túng đó được con hổ nhìn nhận gợi nên không khí xã hội đương thời. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú cũng là thái độ của nhiều người, nhất là thanh niên thời đó với xã hội. Đối lập với cảnh vườn bách thú là cảnh rừng nơi con hổ ngự trị ngày xưa. Rừng núi đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường : bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Giữa nơi hoang vu, cao cả, âm u, chúa sơn lâm hiện ra đầy oai phong, lẫm liệt : Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc Những câu thơ này đã diễn tả tinh tế vẻ đẹp vừa dũng mãnh, uy nghi, vừa mềm mại uyển chuyển của chúa sơn lâm. Những câu thơ của đoạn 3 đã miêu tả bốn cảnh đẹp của núi rừng và nổi bật trên cảnh vừa lộng lẫy, dữ dội, vừa hùng tráng, thơ mộng là hình ảnh con hổ chúa tể, như một vị đế vương đầy quyền uy, đầy tham vọng. Nó uống ánh trăng tan, nó nghe chim ca, nó ngắm giang san, nó muốn chiếm lấy bí mật của vũ trụ. Đúng là một thời oanh liệt, thời huy hoàng. b) Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong đoạn thơ thứ hai và thứ ba rất đặc biệt. Một loạt những từ chỉ sự cao cả, lớn lao, hoành tráng của núi rừng: bóng cả, cây già, gào, hét, thét. Trong khi đó, hình ảnh con hổ thì khoan thai, chậm rãi, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng. Diễn tả sức mạnh tuyệt đối của con hổ không phải bằng tiếng hổ gầm, mà là ánh mắt dữ dội: Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi Sang khổ thơ sau, hàng loạt những điệp ngữ như nhắc đi nhắc lại một cung bậc nuối tiếc, hoài niệm : Nào đâu những, đâu những, đâu những, đâu những... Sau mỗi câu này là một câu hỏi. Và kết thúc là câu hỏi thứ năm, vừa hỏi, nhưng cũng như là khẳng định : thời oanh liệt nay chỉ còn trong quá khứ, trong hồi tưởng mà thôi. Những hình ảnh đêm trăng, mưa, nắng, hoàng hôn vừa đẹp lộng lẫy, vừa dữ dội đã góp phần dựng lại một thời oanh liệt của chúa sơn lâm khi còn tự do. c) Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, nơi cầm tù, nơi tầm thường, trì đọng với nơi đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm... nhà thơ đã thể hiện tâm trạng con hổ chán ngán, khinh ghét, căm thù cũi sắt, căm thù cảnh tầm thường, đơn điệu. Và luôn luôn hoài niệm, luôn hướng về thời oanh liệt ngày xưa. Tâm sự ấy là tâm trạng lãng mạn, thích những gì phi thường, phóng khoáng, đồng thời gần gũi với tâm trạng người dân mất nước khi đó. Họ cảm thấy "nhục nhằn tù hãm", họ nhớ tiếc thời oanh liệt của cha ông với chiến công chống giặc ngoại xâm. Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của họ. Chính vì thế mà người ta say sưa đón nhận bài thơ. 3. Tác giả mượn lời con hổ ở vườn bách thú là rất thích hợp. Nhờ đó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Bản thân con hổ bị nhốt trong cũi là một biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, đồng thời thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự u uất, không bao giờ thoả hiệp với thực tại. Một điều nữa, mượn lời con hổ, tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Dù sao, bài thơ vẫn khơi gợi lòng khao khát tự do và yêu nước thầm kín của những người đương thời. 4*. Nhà phê bình Hoài Thanh đã đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Bên trên đã nói đến những điệp từ tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt (Nào đâu, đâu những...) Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm : Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình. Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên : Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Câu thơ: "Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng" được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau - điều đó như mô phỏng sự đơn điệu, tầm thường của cảnh vật. Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng điệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.
Phúc An 8A9
Xem chi tiết
Đinh Hoàng Yến Nhi
Xem chi tiết
Nguyễn Tuấn Dĩnh
6 tháng 6 2019 lúc 12:15

Nhận xét tác giả với sách lịch sử, văn học:

   + Giống: phân tích, nhận xét ưu điểm người Việt: thông minh, cần cù, sáng tạo, đoàn kết trong chiến đấu…

   + Khác: phê phán khuyết điểm, hạn chế, kĩ năng thực hành, đố kị, khôn vặt

- Thái độ người viết: khách quan khoa học, chân thực, đúng đắn

Quản Gia Lynh
Xem chi tiết
HaNa
26 tháng 8 2023 lúc 10:56

Lời nhận xét trên nói lên phẩm chất của Bác Hồ là sự khiêm tốn, giản dị và không quan tâm đến vật chất, danh vọng hay quyền lực khi bản thân mình là chủ tịch nước. Bác đã chọn một con đường sống như những người dân Việt Nam bình thường, yêu thương, san sẻ và giúp đỡ, luôn tập trung vào việc giúp đất nước mình được phát triển nhân dân được ấm no hạnh phúc.

`♫HaNa`

Thảo Nhi
Xem chi tiết