Kể tên những bài thơ viết về trăng và thiên nhiên trong tập "Nhật kia trong tù "của Bác.Nhanh!!!!!
Câu 1. Nêu hoàn cảnh ra đời của bài "Thiên đô chiếu". Qua văn bản này hãy khắc họa vài nét về Lí Công Uẩn.
Câu 2. Bài thơ "Ngắm trăng" cho thấy tinh thần yêu thiên nhiên đến mê say và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong ngục tù đen tối
Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ và một số bài thơ trong tập "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
HELP ME......
Viết 1 đoạn văn cảm nhận về tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan của người tù cách mạng trong bài thơ (Ngắm Trăng)-HCM
tham khảo:
Có thể nói hình nhiên luôn chiếm một vị trí danh dự trong thơ Bác. Ở hầu hết các bài thơ đều thắm đậm sắc màu của lá, hoa cây cỏ, núi, sông,… Bởi đối với Người được làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người luôn dành cho thiên nhiên một tình yêu tha thiết, qua đó thể hiện tinh thần lạc quan và phong thái ung dung, tự tại của Người.
Thiên nhiên vốn là hình ảnh chủ đạo trong thơ cổ. Người xưa lấy cảnh ngụ tình, chuyển tải cái chiêm nghiệm ở đời qua sự vật và hình ảnh. Thiên nhiên trở thành chuẩn mực của cái đẹp, cái cao cả.
Thơ Bác cũng đầy ắp hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Bác lúc nào cũng tươi đẹp, tràn đầy sức sống, có xu thế vươn lên ánh sáng. Sự vật được sắp xếp hài hòa trong mối tương quan vận động hợp lí. Ít lời mà nhiều ý, gợi ra được cái quy luật của vũ trụ nhân sinh. Người không chú trọng khắc họa chi tiết, Thơ Bác chú trọng đến sự vận đông bên trong của sự vật. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” thể hiện sâu sắc quan điểm ấy:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Trọn vẹn bài thơ không có màu sắc, không có âm thanh, chỉ là sự ghi nhận thực tại theo đúng trình tự của nó. Ấy thế mà, đọc xong bài thơ, trước mắt người đọc hiện ra một khung cảnh tươi xanh, thắm biếc của núi rừng Pác Bó. Chính hình ảnh bờ suối, rau măng gợi ra không gian của cây xanh, núi dốc, của rừng già, vực sâu. Bất chợt đâu đó vang lên tiếng chim kêu gọi bầy, tiếng vượn hú bên nguồn nước và tiếng gió đại ngàn vi vu thổi. cả không gian rộng lớn được giấu kín giờ hiển hiện, phô bày. Điều kì diệu đó chính là do thủ pháp điểm nhãn, lấy ý gợi hình, nắm bắt được cái thần thái của cảnh vật và quy luật tâm lí con người của Bác.
Với bài thơ “Đi đường”, hình ảnh thiên nhiên hiện ra với bao khó khăn, trắc trở. Đôi khi, thiên nhiên lại cản bước con người. Thế nhưng, đến khi vượt qua hết cách trở ấy sẽ nhận được phần thưởng vô giá mà thiên nhiên ban tặng: đó là cảnh vật vĩ đại nhìn từ trên đỉnh cao:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Người luôn có ý thức trân trọng thiên nhiên và xem thiên nhiên như một người bạn, đôi khi là người tri kỉ, sẻ chia tâm tình. Dù là khi còn tự do hay lúc bị giam cầm, thiên nhiên lúc nào cũng gần gũi thân tình, hữu ái. Bài thơ“Ngắm trăng” bộc lộ rõ ràng tình cảm ấy:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Mặc dù ở trong ngục tù, Người vẫn dành cho thiên nhiên một sự ưu ái lớn lao. Vầng trăng sáng trên cao là hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đang gọi mời, tâm tình tỏ bày với người bạn xưa. Trăng cũng có hồn, cũng biết ngắm nhìn và cảm thông. Còn người vượt lên trên nghịch cảnh, vươn tới ánh sáng. Ngục tối có thể giam hãm thân thể Người nhưng không thể nào giam hãm tinh thần Người.
Qua đó, có thể thấy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc còn tự do hay khi bị giam hãm, người vẫn yêu mến thiên nhiên tha thiết với một tinh thần lạc quan, yêu đời đắm say. Không có gì có thể cản trở Người tìm đến và đắm mình trong thiên nhiên hiền hòa.
Không chỉ có thế, thơ Người còn thể hiện một phong thái ung dung, tự tại giữa cuộc đời bão tố. Trong khung cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, Người hiện lên như một vị tiên ông, ung dung, tự tại, điềm tĩnh vô cùng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang'”.
Dù cuộc đời cách mạng với bao hiểm nguy, khó khăn vất vả thế nhưng Bác vẫn không hề quá lo lắng. Bởi Người luôn nuôi dưỡng khát vọng giải phóng dân tộc. Dù có bao nhiêu vất vả thì Người vẫn không hề than vãn, kêu ca. Trọn cuộc đời Người sống vì nhân dân, vì đất nước. Phong thái ung dung, tự tại không phải là thờ ơ trước cuộc đời mà đó là ý chí sắt đá của người chiến sĩ kiên trung, vượt lên trên khó khăn thử thách, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Đường dẫu xa, núi dẫu cao, Người vẫn ung dung bước tới. Và khi đã lên đến tận cùng thì cảnh vật bao la hiện ra trước mắt, đem lại cho Người cảm giác hạnh phúc vô biên của người chiến thắng.
Với thiên nhiên, Bác luôn chân thành và nồng nhiệt, thiết ha. Tinh thần ấy được khẳng định mạnh mẽ hơn trong bài thơ“Ngắm trăng”, được viết lúc người bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Không một bản án dành cho Người, không thời hạn để chờ đợi, tin tưởng. Thế nhưng, trước cảnh đẹp đêm nay đã khiến Người “khó hững hờ”. Người tù từ trong bóng tối nhìn ra vầng trăng sáng, còn vầng trăng từ bên ngoài tìm đến nơi người tù. Người và cảnh giao hòa trong trạng thái thanh cao, đẹp đẽ vô cùng:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Hiện lên trong bức tranh tĩnh lặng ấy hình ảnh người tù, người chiến sĩ ung dung, đĩnh đạc mắt hướng về trăng sáng. Bóng tối của ngục tù và sự lạnh lẽo của buồng giam dường như tan biến mất, chỉ còn đây một tiên nhân đang trong cuộc thưởng du cái đẹp của đất trời.
Tham khảo
Bài thơ “ Ngắm trăng” đã thể tình yêu thiên nhiên đến say mê và khát vọng tự do mãnh liệt của Bác. Bài thơ Ngắm trăng được sáng tác trong hoàn cảnh Bác bị bắt giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cùng phong thái ung dung, tinh thần thép của người tù cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh. Thật vậy, hai câu thơ đầu chính là tình yêu thiên nhiên mãng liệt của Người. Trong điều kiện nhà tù "không rượu cũng không hoa", Bác thiếu đi những điều kiện vật chất của những thi nhân xưa để thưởng nguyệt, ngắm trăng. Tuy nhiên, Bác vẫn khẳng định là "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ" cho thấy tình yêu thiên nhiên cùng sự hưởng thụ thiên nhiên của Bác. Nếu như hai câu thơ trên là tình yêu thiên nhiên của Bác thì hai câu thơ cuối còn là cuộc vượt ngục tinh thần của Bác. "Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ" là một tư thế chủ động giao hòa với thiên nhiên của Bác. Từ "ngắm" cho thấy một sự hưởng thụ thiên nhiên thoải mái tuyệt đối. Tư thế ngắm trăng của Bác cho thấy sự ung dung, không chút sợ hãi và tinh thần thép của Người trong hoàn cảnh ngục tù khó chịu như thế. Chao ôi, đáp lại tình yêu của Bác, dường như trăng cũng "nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"! Hình ảnh trăng xuất hiện nhiều trong thơ Bác và nay thì trăng được nhân hóa thành một con người có tâm hồn, thành một người bạn tâm giao tri âm tri kỷ của Bác qua song sắt nhà tù. Bác và trăng cùng giao hòa tâm hồn như những người bạn. Dường như nhà tù chỉ giam giữ được thân xác của Bác chứ không hề giam giữ được tinh thần của Bác. Tâm trí của Bác dành trọn cho thiên nhiên, cho vầng trăng tươi đẹp.Phải chăng đây chính là cuộc vượt ngục tinh thần của người tù cách mạng? Hai câu thơ với cấu trúc sánh đôi cho thấy sự giao hòa tuyệt đối, song phương của Bác và thiên nhiên, trong đó hình ảnh của Bác hiện lên vĩ đại, không chút sợ hãi và chan chứa tình yêu thiên nhiên. Tóm lại, bài thơ không chỉ là tình yêu thiên nhiên của Bác mà nó còn là cuộc vượt ngục tinh thần của người tù cách mạng VN.
Em hãy chứng minh thiên nhiên trong thơ HCM là những bức tranh hùng vĩ và tươi sáng. (Giải đi sớm, mới ra tù tập lao núi, ngắm trăng, đi đường)
Một buổi chiều tối, vào cuối mùa thu năm 1942, trên con đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, dù đã trải qua một ngày dài gian lao, vất vả nhưng bác vẫn còn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường và trước mắt là một đêm trong nhà giam chặt hẹp, bẩn thỉu, lại “Được cùm chân mới yên bề ngủ/ Không được cùm chân biết ngủ đâu”. Những đày đọa ban ngày chưa qua, những đày đoạ ban đêm đã sắp đến. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, người vẫn vượt lên trên tất cả để ghi lại một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống thật đẹp:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngụ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò thân đã rực hồng).
Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người gần gũi, sinh động trong cảm nhận của một người tù cách mạng.
“Chiều tối” mở đầu bằng hai câu thơ miêu tả thiên nhiên vừa gần gũi lại vừa khác lạ. Cũng giống như trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu thơ đầu đã được phác hoạ bằng những nét châm phá. Nhà thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi ra một vài nét để bắt lấy cái hồn của tạo vật. Toàn bộ khung cảnh miền thiên nhiên sơn cước hiện ra đơn sơ qua cánh chim chiều mệt mỏi đang vỗ cánh bay về nơi trú ngụ, và trong áng mầy lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo, Nhìn cánh chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Thiên nhiên ở khắc họa ở hai nét rất cơ bản nhưng hiện lên đầy ấn tượng về cảnh sắc và xúc cảm. Nó gợi ta nhớ đến những câu thơ râ't hay cũng viết về cảnh chiều tà như vậy. Ca dao từng có câu: “Chim bay về núi tối rồi”. Và đó cũng là cánh chim của buổi chiều tà trong thơ Nguyễn Dủ: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Câu thơ của Người vì thế mà cũng vừa gợi ý niệm về không gian vừa gợi ý niệm về thời gian. Mặc dù vậy, hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở tâm trạng (cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự tương đồng gần gũi giữa hình ảnh cánh chim ấy với người tù trên đường chuyển lao mệt mỏi. Nhưng hành trình của cánh chim có thế’ coi như đến đấy là đã tạm ngừng để nghỉ ngơi thì người tù cách mạng vẫn phải tiếp tục những đày đọa. Nhưng ý thơ không vì vậy mà mất đi sự hoà hợp đồng điệu, giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật. Bởi cội nguồn của nó chính là tình yêu thương mênh mông Bác giành cho mọi sự sống trên đời.
Hình ảnh chòm mây gợi ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc lâu”: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và câu thơ của Nguyền Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu), vẫn là một thi liệu quen thuộc nhưng “mây” trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn đang chậm chạp trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người. Nó như mang cái tâm trạng lẻ loi, đơn độc, băn khoăn, trăn trở, cha biết tương lai sẽ đi đến đâu của người tù nơi đất khách. Khi Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường “Độc tọa Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình) nhìn thấy cảnh:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”.
(Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn, đám mây một mình).
Sơn thôn thiểu nữ ma bao túc
Để cánh chim bay mất hút vào cõi vô tận thì trong thơ Bác, cánh chim là của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống: Sáng đi ăn, tối về rừng ngủ. Áng mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn áng mây trong bức tranh “chiều tối” của Bác toát lên vẻ yên ả, thanh bình của cuộc sống thường ngày, ở trong cảnh đày đọa “Năm mươi ba cây số một ngày/ Mũ áo dẩm mưa rách hết giày” vậy mà hồn thơ ấy vẫn vượt lên trên tất cả đê cảm nhận và đón nhận vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, tạo vật. Tình yêu thiên nhiên và “chất thép” trong tâm hồn người tù cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để chiến thắng hoàn cảnh. Từ bức tranh thiên nhiên, ta bắt gặp một cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện lên dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thư thái thưởng ngoạn cảnh về chiều ở rừng núi.
Nếu như trong hai câu thơ đầu, cảnh vật hiện ra trong những nét vẽ chấm phá phần nào mang tính chất ước lệ cổ điển thì hình ảnh cô thôn nữ trong hai câu thơ còn lại lại được gợi tả một cách chân thực, sinh động và cụ thể như một bức tranh hiện thực. Bức tranh di chuyển điểm nhìn vào cuộc sống con người. Chính nét vẽ đời thường ây đã làm cho bài thơ tãng thêm dáng vẻ hiện đại. Hình ảnh người con gái nổi bật lên, trở thành trung tâm của bài thơ. Thời khắc đầu đêm nơi xóm núi đã làm người tù quên đi cảnh ngộ khổ đau của mình để cảm nhận cuộc sống của nhân dân. Bác đã vợt qua những khoảng cách về không gian, đẳng cấp, dân tộc để đón nhận vẻ đẹp con người ở ngay nơi mà mình bị đày đọa. Đó là điều không phải ai cũng có thể làm được. Hai câu thơ nói lên sự quan tâm và tình cảm yêu thương của Bác đối với ngửời lao động nghèo mà sự làm việc mệt nhọc thể hiện qua âm điệu khắc khổ của bài thơ. Đến đây bài thơ có sự vận động từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống. Cũng là sự xuất hiện của con người nhưng không phải là cảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sống chợ mây nhà” chỉ làm tăng thêm nỗi buồn và sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong thơ Bà huyện Thanh Quan, con người trong thơ Bác xuất hiện chỉ một mình nhưng lại mang theo sức ấm nóng của sự sống Hành động xay ngô gợi đến những bữa ăn gia đình đông đúc và vui vẻ, gợi cuộc sống lao động b)nh dị. Hơn thế nữa, nó lại đi liền với “lô dĩ hồng”, cái â'm nóng của bếp lửa. Trong một đêm mùa thu giá rét phương Bắc, một bếp lửa rực hồng thật có ý nghĩa. Nó trở nên ấm áp và có sức lan toả hơn bao giờ hết. Cô thôn nữ được miêu tả trong sự lao động cần mẫn. “Ma bao túc” rồi “ma túc ba hoàn” vòng quay của cốì xay ngô cứ đều đặn không ngừng nghi trong thái độ lao động hăng say của con người. Trong sự vận động của câu thơ có sự vận động của thời gian. “Nguyên văn không nói đến tốì mà tự nhiên nói đến: thời gian cứ trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng quay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc... bao túc ma hoàn” và đến khi côi xay dừng lại thì “lô dĩ hồng”, lò đã rực hồng, tức là trời tôi, trời tôi thì lò rực lên” (Lê Trí Viễn). Như vậy, bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đém tối, nhưng lại không phải đêm tối lạnh lẽo, âm u mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái châm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa đã châm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước trên đường xa. Giũa cái hoang sơ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời, hình ảnh cô gái xay ngô và bếp lửa rực hồng của cô toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, sống động, đáng quí và đáng trân trọng biết bao.
Bài thơ là sự kết hợp của hai mảng màu chính: mảng màu của thiên nhiên và mảng màu của cuộc sống con người. Cái làm nên sự hài hoà giữa hai mảng màu ấy là tâm lòng thiết tha yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn đến vui. Sự vận động này cho thây cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời, thể hiện tâm hồn luôn vận động hướng ra ánh sáng, hướng ra sự sống, một “chất thép” đáng khâm phục trong tâm hồn thi sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh
Hãy viết 1 đoạn văn diễn dịch về câu chủ đề: "bài thơ ngắm trăng thể hiện tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của bác ngay cả trong cảnh ngục tù gian khổ tối tăm" từ câu trên hãy viết 1 đoạn văn diễn dịch khoảng 12 15 câu trong đó có 1 câu cảm thán
Tham khảo
Bài thơ ngắm trăng thể hiện tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của bác ngay cả trong cảnh ngục tù gian khổ tối tăm. Bác Hồ của chúng ta rất yêu thiên nhiên, tâm hồn và thơ của Người tràn đầy ánh trăng, ánh trăng rất sáng, rất trong, rất đẹp. Trăng, hoa, rượu là những thú vui thanh cao của các thi nhân Đường, Tống ngày xưa. Nhưng trong hoàn cảnh nhà tù “không rượu cũng không hoa” mà Bác vẫn đến với trăng, thật là nghệ sĩ (Câu cảm thán)! Nếu đầu tiên, bài thơ mở ra một hình ảnh thi nhân ngày xưa, một không khí thơ Đường, thơ Tống: ánh trăng, rượu, hoa một thi nhân biết bao nồng nàn tha thiết, say sưa với ánh trăng, thì bài thơ khép lại một cách bất ngờ và độc đáo trong tư thế vọng nguyệt của một người chiến sĩ. Chất thép và chất tình hoà quyện làm một. Bài thơ đậm đà chất phương Đông, cốt cách Á Đông, bỗng chốc rất hiện đại. Hình ảnh chiến sĩ lồng trong hình ảnh một thi sĩ đắm say thiên nhiên. Trăng và người trong mối giao cảm tri âm, tri kỉ. Người hướng ra ngoài song sắt để đến với trăng, và trăng theo người toả sáng vào trong tù. Con người và ánh trăng này rõ ràng là hết sức mới mẻ, hiện đại. Trăng và người như hai người bạn cùng yêu nhau, vượt qua các song sắt tàn bạo, cái hoàn cảnh khổ đau, ngăn trở của nhà tù. Con người yêu thiên nhiên, đón nhận thiên nhiên và mang vẻ đẹp thiên nhiên tô điểm cho cuộc sống của mình, từ tình yêu thiên nhiên thêm nguồn sức sống để chiến đấu cho hạnh phúc, vẻ đẹp của con người. Nói một cách khác, tình yêu này, sự rung cảm này, chất thơ này trở thành một nguồn năng lượng vô tận cho hành động, sức sống, đi suốt cuộc đời mỗi người.
bằng hiểu biết của e về bài thơ ngắm trăng, e hãy làm sáng tỏ luận điểm sau: Bài thơ ngắm trăng đã thể hiện sâu sắc tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan của người chiến sỹ cách mạng trong cảnh tù đày
Lưu ý: văn nghị luận k phải phân tích
Mở bài: Từ xưa đến nay, trăng vốn là người bạn thơ của thi sĩ và cũng là đề tài muôn thuở trong thi ca nhạc hoa. Đi vào trang thơ của mỗi thi nhân, trăng sẽ hiện hữu ở những góc độ và đường nét khác nhau. Với “Ngắm trăng”, Hồ Chí Minh không chỉ cho tất cả những người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của trăng mà thông qua đó còn bộc lộ những nỗi niềm của chính mình trong hoàn cảnh đặc biệt quan trọng chốn lao tù.
hiên nhiên xuất hiện trong bài thơ Ngắm trăng
Câu thơ thứ hai tựa hồ như một nét vẽ mà sau đường mang bút của Hồ Chí Minh, cảnh thiên nhiên hiện hữu khá rõ ràng:
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”
Dịch nghĩa:
“Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”
Nếu như câu thơ đầu tiên làm người đọc động lòng vì hoàn cảnh ngang trái mà Bác bỏ Hồ phải đối mặt. Tưởng như đến câu thơ tiếp theo, tác giả sẽ nói đến cảm xúc xót xa của mình khi sống trong tham gia đó. Thế mà thật lạ lùng, Bác bỏ lại hướng tầm mắt người đọc ra phía không gian mông mênh, rộng lớn của đất trời và không hết lời ca tụng cảnh đẹp (“lương tiêu”).
Khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy cảnh vật tươi đẹp, thu hút đến nỗi khiến người thưởng cảnh cũng bối rối, khó xử vì không “biết làm thế nào?” (“nại nhược hà”) khi đối diện. Giờ phút này đây, bao nhiêu những khổ đau, vất vả, cực nhọc, xót thương của cảnh tù đày dường như vắng bóng, phải chăng mối bận tâm duy nhất của Bác bỏ lúc này là dành hết cho thiên nhiên vạn vật.
Cảnh ấy khiến Người cảm thấy bồn chồn, náo nức bởi vì một tâm hồn nghệ sĩ như Hồ Chí Minh, sao thể không rung động trước một khung cảnh mà Người dành hết lời truyền tụng như vậy. Có ý kiến nhận định rằng, trong bản dịch thơ của Nam Trân, khi sử dụng “khó hững hờ” để thể hiện ý nghĩa “biết làm thế nào?” thì chưa làm bộc lộ hết những bồn chồn, náo nức trong tâm trạng người thi sĩ vì bản thân từ “hững hờ” mang ý nghĩa thờ ơ, lạnh nhạt, không chú ý đến điều gì đó.
Trong thơ Bác bỏ, có lẽ hơn hết sự để ý, quan tâm, trước cảnh đẹp có lẽ Bác bỏ cũng không giấu được sự đón đợi, phấn chấn. Nhưng xét thấy, để tìm được từ ngữ nào khác thể hiện trọn vẹn ý nghĩa câu thơ thì đó không phải là điều đơn giản. Thế nên thiết nghĩ cũng không nên khắt khe với tác giả bản dịch thơ.
Nhìn lại cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, có thế thấy, hai câu thơ đầu của bài thơ đã làm nổi bật một tâm hồn nghệ sĩ phải ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt quan trọng chốn lao tù tưởng như không phù hợp. Tuy nhiên, Người đã mặc kệ hoàn cảnh, bỏ qua sự hiện hữu của vật chất là rượu và hoa để vẫn có thể thưởng cảnh ung dung, tự tại. Nhưng trước khoảnh khắc diệu kì của cảnh đẹp, Người vẫn không khỏi xốn xang.
Cuộc vượt ngục về tinh thần của người chiến sĩ
Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy ở câu thơ thứ hai, người chiến sĩ – thi sĩ ấy đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên đầy ấn tượng. Đến hai câu thơ cuối, trong cái nền của khung cảnh thiên nhiên, tác giả đã tập tập trung sự chú ý của người đọc vào quan hệ giữa thi sĩ và vầng trăng trên cao theo như đúng tinh thần “ngắm trăng” của bài thơ:
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
Dịch nghĩa:
“Người hướng ra phía trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.”
Trong hai câu thơ đều phải sở hữu sự xuất hiện của rất nhiều hình ảnh: “nhân”, “nguyệt”, “song” (song cửa), vị trí của “song” cửa nhà tù luôn đứng chắn giữa câu thơ, còn người và “nguyệt” thì có sự hoán đổi. Chính vì sự linh hoạt hoán đổi vị trí này đã tạo nên tầng nghĩa giàu giá trị của bài thơ.
Ở câu thơ thứ ba, khi hướng tầm mắt ra phía “song tiền” để “khán minh nguyệt” cũng là lúc nhà thơ để cho tâm hồn mình thoát khỏi sự tù tội để giao hòa cùng vầng trăng sáng ở không gian khung trời mông mênh. Ở đây đã có một cuộc vượt ngục diễn ra, đó không phải là cuộc vượt ngục thông thường mà là vượt ngục về tinh thần.
PHẦN ĐỌC – HIỂU: (3.0 điểm)
Đọc kĩ đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong suốt 14 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù)
Về nội dung:
Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ đại. về phương diện này, có thể coi "Nhật kí trong tù" như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chân dung Hồ Chí Minh trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại có dũng khí lớn, lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về Tổ quốc, khát khao tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Bị đày đọa trong lao tù, Người vẫn ung dung, tự tại, tràn đầy tinh thần lạc quan. Chân dung Hồ Chí Minh còn là hình ảnh bậc đại nhân có tình thương yêu bao la, thấu hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con người. Tâm hồn Hồ Chí Minh nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên. Tập "Nhật kí trong tù" bộc lộ cốt cách của một thi nhân, một nghệ sĩ lớn.
Về mặt nghệ thuật : Là tác phẩm được đánh giá cao thể hiện vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ chí minh nổi bật là sự kết hợp hài hòa giữa thơ cổ điển và hiện đại trong toàn bộ tác phẩm.
Cảm mến trước tài năng và tâm hồn Bác, khi đọc tập thơ, nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:
Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
a.Xác định phương thức biểu đạt chính và nội dung của đoạn trích? (1.0 điểm)
b.(2.0 điểm) Em đã đọc, đã học những bài thơ nào trong tập thơ này? Bài học sâu sắc của bản thân qua những bài thơ ấy. (Gạch ý)
PHẦN LÀM VĂN: (7.0 điểm)
Viết bài văn trình bàycảm nhận của em về tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ được thể hiện qua hai bài thơ trên
Nguyễn khánh
trong câu thơ :"vầng trăng thàng tri kỉ "của bài thơ ánh trăng nêu tên một bài thơ khác mà em đã học trong trương trình ngữ văn trung học cơ sở hiện tại cũng viết về trăng và nêu rõ tên bài thơ ấy.
Người ngắm trăng soi ngoài khe cửa
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
(Vọng nguyệt - Hồ Chí Minh)
Hãy kể ra 3 bài thơ tiêu biểu của Bác Hồ trong tập thơ Nhật kí trong tù
_____
Bài 1
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại;
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn lên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn lên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
______
Bài 2 (khai quyển)
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Mở đầu tập Nhật ký
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết là chi đây;
Ngày dài ngâm đợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
______
Bài 3(Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu)
Túc Vinh khước sử dư mông nhục
Cố ý trì diên ngã khứ trình
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo
Bả nhân danh dự bạch hy sinh
Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta;
Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của Người.
Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho người vô cớ mất thanh danh.
Người bạn tù thổi sáo
Trung thu
Hoàng hôn
e học lớp 5,chỉ kể được bài Ngắm Trăng thôi
viết 1 đoạn văn khoảng 8-10 câu trình bày những cảm nhận của em về tình yêu thiên nhiên ,tinh thần lạc quan của bác thể hiện trong bài thơ ngắm trăng có sử dụng câu ghép ( gạch chân rõ)