viết về một phong tục hay một truyền thống ở việt nam
giúp mình với mình cần gấp lắm
Viết một đoạn văn nói về phong tục, truyền thống ở Việt Nam/nhà em hoặc quê em ( bằng tiếng
Anh )
#Help me, cần gấp
All of the special holidays in my country, I Tet the most. Tet is an occasion to everyone get together in warm atmosphere. Before Tet holiday, Everyone prepares many things and decorates their house. I plant a lot of flowers in front of my house and buy many things such as clothes, foods ...
Besides, most of the streets also are decorated beautifully with colorful lights and flowers. During Tet, I spends more time on visiting my relatives, friends and colleagues. Especially, I give to each other the best wishes for the new year. Tet is an opportunity for children receive lucky money. There is a funny thing that people try to avoid argument or saying any bad things at Tet. I love Tet holiday!
First, everybody has to do their share of the household chores. For example, my mother cooks meals everyday, my father mends things around the house in his free time, my elder sister washes clothes and I usually clean the house. Second, I and my sister have to prepare meals. I think so. Because, my mother cooks meals and we should help her. It is a service which we express deep gratitute to mom. And my father will be happy if the meals are ready on the table by the time he gets home. During the school year, I'm not allowed to watch TV or talk on the phone. My parents don't allow me to access the internet for amusement. In fact, I miss them, but I know my parents want me to concentrate on studying. It's good for me. Next, whenever problems come up, we must discuss them frankly and find solutions quickly, or before making an important decision. I had to be allowed by my parents.The most important rule is frankness. All members have to speak honestly so that we can believe in each other. All in all, family rules are necessary.
Nhớ đúng !
helpppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppppp;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;thankkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkkk can you speak vietnam
tìm thông tin về một phong tục hay truyền thống của một dân tộc Việt Nam bằng tiếng anh
The ancients said that anything that has a soul, so a lot of people worship the god, their primitive worship the sun, the moon god, the god of land, river god, the god of the Sea, the god of thunder, rain god, .. gods are those associated with dreams of life practical agricultural people. Going into their daily lives and Agriculture worship gods look after the fields, rice god, the god of corn with rice, corn hope is always full. Not only the gods associated with material life, the nations also worship the gods associated with their spiritual life. Vietnamese people worship the tutelary gods, heroes of the nation, the gods of religion form ..
Ancestor worship and worship the deceased is a longstanding tradition of Vietnam and some other ethnic groups. They believe that the spirits of ancestors and descendants side and bless them. Because of this, there are also family ancestral altar and the altar is placed in the most suitable place. In addition to the anniversary, then the first day of Tet, the fifteenth day they burn incense as a form of notice to the ancestors. Speaking to worship ancestors, people all know to a common anniversary for the Vietnamese it is the anniversary of Hung Vuong on March 10 (lunar)
viết 5 câu về phong tục,truyền thống về xã hội ở việt nam
1. There is a custom of making Chung cake at Tet
2. Break with the tradition by using sponge cake instead of Moon - cake at Mid - Autumn Festival.
3. Follow the tradition of not sweeping your house at the first day at Tet
4. It's the custom for somebody to decorate the house on special occasion.
5.We break with the tradition by wearing normal chothes instead of ao dai on special occasion.
-Right after the countdown time, anyone who steps outside into the home with new year wishes are considered to have stormed the land for their home
-December 23, is the day that the Vietnamese offer the apple (Kitchen God)
-Some families in the countryside still maintain the custom of planting trees
-It can be December 30 (if it is full year) or December 29 (if it is a shortage year). This is the day the family reunites together to eat the end of the year
-Eve. To record this moment, people usually make two wheels. One was at the altar in his house and one was in the courtyard of the house. The altar in the family of Vietnamese often have an altar, grandparents
sai thì thông cảm cho mình nhé
Viết một đoạn văn ngắn kể về một truyền thống / một phong tục của gia đình bạn hoặc của bất kỳ ai mà bạn biết. Theo bạn, đó là điều tốt hay xấu nếu được tiếp tục trong một thời gian dài? (cần gấp)
Tham khảo
Tet is a national and family festival. It is an occasion for every Vietnamese to have a good time while thinking about the last year and the next year. At Tet, spring fairs are organized, streets and public buildings are brightly decorated and almost all shops are crowded with people shopping for Tet. At home, every is tidied, special food is cooked, offerings of food, freshwater, flowers, and betel are made on the family altar with burning joss- sticks scenting the air. First-footing is made when the lucky visitor comes and children are given lucky money wrapped in a red tiny envelope. Tet is also a time for peace and love. During Tet, children often behave well and friends, relatives, and neighbors give each other best wishes for the new year.
Bản dịch đây:)
Tết là ngày hội của dân tộc và gia đình. Đây là dịp để mọi người Việt Nam có khoảng thời gian vui vẻ khi nghĩ về năm vừa qua và năm sau. Vào dịp Tết, các hội chợ xuân được tổ chức, đường phố và các công trình công cộng được trang hoàng rực rỡ và hầu như tất cả các cửa hàng đều tấp nập người mua sắm Tết. Trong nhà, mọi thứ đều được dọn dẹp gọn gàng, thức ăn đặc biệt được nấu chín, đồ ăn, nước ngọt, hoa và trầu được bày trên bàn thờ gia tiên với những đốt nhang thơm ngào ngạt. Bước đầu tiên được thực hiện khi khách đến thăm may mắn và trẻ em được lì xì trong một phong bì nhỏ màu đỏ. Tết cũng là khoảng thời gian dành cho sự bình yên và yêu thương. Trong ngày Tết, trẻ em thường cư xử tốt và bạn bè, họ hàng, làng xóm dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất cho năm mới.
viết một đoạn văn bằng tiếng anh về phong tục và truyền thống của người việt nam (our customs and traditions)
1. Clean and decorate the home. (Làm sạch và trang trí ngôi nhà.)
Homes are often cleaned and decorated before New Year's Eve. Children are in charge of sweeping and scrubbing the floor. The kitchen needs to be cleaned before the 23rd night of the last month. Usually, the head of the household cleans the dust and ashes (from incense) from the ancestral altars. It is a common belief that cleaning the house will get rid of the bad fortunes associated with the old year. Some people would paint their house and decorate with festive items.
Căn nhà thường được dọn dẹp và trang trí trước khi đêm giao thừa. Trẻ em được phụ trách việc quét và lau chùi kỹ phần sàn nhà. Nhà bếp cần được lau chùi trước đêm 23 tháng Chạp. Thông thường, chủ hộ gia đình làm sạch bụi và tàn nhang (từ hương trầm) trên bàn thờ tổ tiên. Đó là một tín ngưỡng chung rằng ngôi nhà sạch sẽ xua đi các vận xấu trong năm cũ. Một số người sơn lại căn nhà và trang trí các vật dung cho lễ hội.
2. Literally means "getting new clothes" (Nghĩa đen là "mặc quần áo mới")
This is often the most exciting part of the Vietnamese New Year among children. Parents usually purchase new clothes and shoes for their children a month prior to the New Year. However, children cannot wear their new clothes until the first day of the New Year and onward. The best outfit is always worn on the first day of the year.
Đây thường là phần thú vị nhất trong năm mới đối với trẻ con. Phụ huynh thường mua quần áo và giày dép mới cho con cái họ một tháng trước ngày năm mới. Tuy nhiên, bọn trẻ không thể mặc quần áo mới của chúng cho đến ngày đầu tiên của năm mới trở đi. Bộ đẹp nhất luôn luôn được mặc vào ngày đầu tiên của năm.
3. Farewell ceremony for the Kitchen Gods (Ong Tao) (Cúng tiễn các vị thần bếp về trời (Ông Táo))
Seven days (the 23rd night of the last lunar month) prior to Tet, each Vietnamese family offers a farewell ceremony for Ong Tao to go up to Heaven Palace. His task is to make an annual report to the Jade Emperor of the family's affairs throughout the year.
Bảy ngày (đêm 23 tháng Chạp âm lịch) trước Tết, mỗi gia đình Việt Nam làm một lễ cúng tiễn Ông Táo về trời để đi đến Thiên đình. Nhiệm vụ của ông là làm một báo cáo hàng năm cho Ngọc Hoàng về các vấn đề của gia đình trong suốt cả năm.
4. Lunar New Year's Eve (Đêm giao thừa)
However, in a literal translation, it means "Passage from the Old to the New Year". It is a common belief among Vietnamese people that there are 12 Sacred Animals from the Zodiac taking turn monitoring and controlling the affairs of the earth. Thus, Giao Thua (New Year's Eve)is the moment of seeing the old chief (Dragon for 2000) end his ruling term and pass his power to the new chief (Snake for 2001). Giao Thua is also the time for Ong Tao (Kitchen God) to return to earth after making the report to the Jade Emperor. Every single family should offer an open-air ceremony to welcome him back to their kitchen.
Tuy nhiên, trong một bản dịch, nó có nghĩa là "Năm cũ qua năm mới đến". Đó là một tín ngưỡng chung của người Việt Nam rằng có 12 con vật linh thiêng từ Hoàng Đạo theo dõi và kiểm soát công việc của trái đất. Vì vậy, Giao Thừa (Đêm trước năm mới) là thời điểm nhìn thấy những linh vật cũ (Canh Thìn năm 2000) cầm quyền kết thúc nhiệm kỳ và chuyển giao sức mạnh của mình qua các linh vật mới (Tân Tỵ vào năm 2001). Giao Thừa cũng là thời gian cho Ông Táo (Táo quân) để trở về trái đất sau khi thực hiện báo cáo với Ngọc Hoàng. Mỗi gia đình cần cúng một lễ để đón Táo Quân trở về nhà bếp của họ.
5. The Aura of the Earth (Người xông đất)
Giao Thua is the most sacred time of the year. Therefore, the first houseguest to offer the first greeting is very important. If that particular guest has a good aura (well respected, well educated, successful, famous, etc.), then the family believes that they will receive luck and good fortune throughout the year. The belief of Xong Dat still remains nowadays, especially among families with businesses.
Giao Thừa là thời gian thiêng liêng nhất của năm. Vì vậy, vị khách đến nhà đầu tiên là rất quan trọng. Nếu đó là người khách đặc biệt có ảnh hưởng tốt (được tôn trọng, có học vị, thành công, nổi tiếng,...), gia đình đó tin rằng họ sẽ có được được may mắn và vận mệnh tốt trong suốt cả năm. Tín ngưỡng Xông Đất vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đặc biệt là các gia đình có làm ăn kinh doanh.
6. Apricot flowers and peach flowers (Hoa mai và hoa đào)
Flower buds and blossoms are the symbols for new beginning. These two distinctive flowers are widely sold and purchased during Tet. Hoa Mai are the yellow apricot flowers often seen in Southern Viet Nam. Hoa Mai are more adaptable to the hot weather of southern regions, thus, it is known as the primary flower in every home. Hoa Dao are the warm pink of the peach blossoms that match well with the dry, cold weather from the North. Tet is not Tet if there is no sight of Hoa Mai (south) or Hoa Dao (north) in every home.
Chồi hoa và hoa là những biểu tượng cho sự khởi đầu mới. Hai loại hoa đặc biệt được bán rộng rãi và mua trong thời gian Tết. Hoa Mai vàng thường được thấy ở miền Nam Việt Nam. Hoa Mai thích nghi nhiều hơn với thời tiết nóng của khu vực phía Nam, do đó, nó được coi là loài hoa chính của mọi nhà. Hoa Đào màu hồng phù hợp với thời tiết khô lạnh ở phía Bắc. Tết sẽ không là Tết nếu không có sự xuất hiện của Hoa Mai (phía nam) hoặc Hoa Đào (phía bắc) trong mỗi nhà.
7. Giving away red envelopes (filled with lucky money) (Phát phong bao màu đỏ (với tiền mừng tuổi))
This is a cultural practice that has been maintained for generations. The red envelopes symbolize luck and wealth. It is very common to see older people giving away sealed red envelopes to younger people. Reciprocally, the older ones would return good advice and words of wisdom, encouraging the younger ones to keep up with the schoolwork, live harmoniously with others, and obey their parents.
This greeting ritual and Li Xi is also known as Mung Tuoi, honoring the achievement of another year to one's life.
Đây là một nét văn hóa đã được duy trì qua nhiều thế hệ. Các phong bao màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn và giàu có. Việc người lớn tuổi cho mừng tuổi đỏ cho những người trẻ hơn rất phổ biến. Bên cạnh đó, những người lớn tuổi sẽ đưa ra những lời khuyên răng và chỉ bảo, khuyến khích những người trẻ hơn theo đuổi việc học, sống vui vẻ với những người khác và vâng lời cha mẹ.
Phần chúc mừng năm mới và Lì Xì còn được gọi là Mừng Tuổi, ăn mừng những thành tựu một năm qua của một người.
8. Making offers for the Ancestors (Thực hiện cúng tổ tiên)
This ceremony is held on the first day of the New Year before noontime. The head of the household should perform the proper ritual (offering food, wine, cakes, fruits, and burn incense) to invite the souls of the ancestors to join the celebration with the family. This is the time families honor the souls of their ancestors and present the welfare of the family.
Lễ này được tổ chức vào ngày đầu tiên của năm mới trước buổi chiều. Chủ hộ gia đình cần thực hiện đúng các nghi thức (cúng thức ăn, rượu, bánh, hoa quả và thắp hương) để mời linh hồn của tổ tiên tham gia buổi lễ cùng với gia đình. Đây là thời gian các gia đình tưởng nhớ những linh hồn của tổ tiên họ và thể hiện sự thịnh vượng của gia đình.
Vietnamese New Year Foods (Thức ăn trong ngày Tết của người Việt Nam)
One of the most traditional special foods for New Years (Tet) of Vietnamese is Banh Chung or sticky rice cake. Banh Chung is made of sticky rice, pork meat and green bean, every ingredient is wrapper inside a special leaf which calls Dong. Making the Banh Chung requires care and precision in every step. The rice and green bean has to be soaked in water for a day to make it stickier. The pork meat is usually soaked with pepper for several hours. Squaring off and tying the cakes with bamboo strings require skillful hands to make it a perfect square.
Một trong những thức ăn truyền thống đặc biệt cho năm mới (Tết) của người Việt Nam là Bánh Chưng hoặc bánh Dày. Bánh Chưng được làm bằng gạo nếp, thịt heo và đậu xanh, mỗi thành phần được gói bên trong một loại lá đặc biệt được gọi lá Dong. Làm Bánh Chưng đòi hỏi phải có sự chú ý và độ chính xác trong từng bước. Gạo và đậu xanh phải được ngâm trong nước trước một ngày để làm cho nó dẻo. Thịt lợn thường được trộn với hạt tiêu khoảng vài giờ. Việc gói bánh và buộc bằng dây tre đòi hỏi bàn tay khéo léo để nó thành một hình vuông hoàn hảo.
Banh Chung is a must among other foods to be placed on the ancestors' altars during Tet holiday. In the old time, one or two days before Tet, every family prepares and cooks the Banh Chung around the warm fire. It is also the time for parents to tell their children folklore stories. Nowadays, families which live in villages still maitain making Banh Chung before New Years but the people in the city does not. They don't have time and prefer to go to the shop to buy it.
Bánh Chưng là một trong số các loại thực phẩm phải được đặt trên bàn thờ của tổ tiên trong ngày Tết. Trong một hoặc hai ngày trước Tết, mỗi gia đình chuẩn bị và nấu Bánh Chưng quanh bếp lửa. Đây cũng là thời gian cho cha mẹ kể những câu chuyện dân gian cho con cái họ. Ngày nay, các gia đình sống trong làng vẫn còn duy trì việc làm Bánh Chưng trước năm mới nhưng những người dân thành phố thì không. Họ không có thời gian và thích đi đến cửa hàng để mua nó hơn.
our country has a lot of customs and traditions .and new year celebrations occupy most of the customs . at first the peaple cleaned the house and wiped incense on the altar of ancestors .The second custom is that before the Lunar New Year, every Vietnamese family bids farewell to the gods in the kitchen.Third, families often make chung and day cake on the altar to show gratitude.In addition, they also buy apricot blossom and peach blossom to welcome the new year and lucky money red for the children.I am very proud of Vietnamese customs and traditions and hope it will continue to develop
Thuyết minh về một nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Giúp mình với !
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được người biết đến - Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bên đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phong đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đến phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ gặp điểm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca "Làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh". Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sẩm uất vào cữ tháng một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông, xứ Đoài ghé bên "ăn tranh". Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ấn hiện la đà các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sông chủ yếu bằng nghề làm. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cấm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú ta của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dung tranh mới. Tranh làng Đông không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường tờ tranh không lớn quá 50 cm mỗi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Xem tranh gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng họ; hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói những bộ tứ binh, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa... Một nhà xứ Kinh Bắc đã viết:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế... không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đụng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Trưng, Bà Triệu...; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh; phổ biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà (xem thêm Bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sách. Nhà Nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa... Tranh Đông Hổ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ cơ hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hòi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày... cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ e phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thế thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm "cực thịnh", đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Tết Đông Hồ vẽ tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
Bài Làm
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được người biết đến - Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bên đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phong đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đến phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ gặp điểm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca "Làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh". Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sẩm uất vào cữ tháng một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông, xứ Đoài ghé bên "ăn tranh". Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ấn hiện la đà các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sông chủ yếu bằng nghề làm. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cấm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú ta của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dung tranh mới. Tranh làng Đông không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường tờ tranh không lớn quá 50 cm mỗi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Xem tranh gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng họ; hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói những bộ tứ binh, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa... Một nhà xứ Kinh Bắc đã viết:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế... không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đụng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Trưng, Bà Triệu...; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh; phổ biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà (xem thêm Bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sách. Nhà Nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa... Tranh Đông Hổ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ cơ hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hòi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày... cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ e phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thế thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm "cực thịnh", đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Tết Đông Hồ vẽ tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
Nếu trở lại trang sử xưa, nghề dệt chiếu ở vùng Quáng Nam có từ khá lâu đời cùng thời với nghề chiếu ở Quảng Bình và Thừa Thiên. Trong "Phú biên tạp lực của Lê Ọuý Đôn có ghi:... Xã Hòa Sơn, huvện Tân Phúc, phủ Điện Bàn nộp chiếu hoa thay cho sưu lính, hàng năm trước ngày mồng một tết, dinh Quảng Nam thu chiếu miến lớn 25 đôi, chiếu miến nhỏ năm đôi, chiếu thảm tám đôi, chiếu phản dài tám đôi, chiếu phản ngắn một đôi. chiếu nho dày bốn đôi, chiếu cầu trơn trải ở Văn Miếu một đôi. chiếu thảm cạp lục huyền một đôi, cộng năm mươi ba đôi lại các hạng chiểu trơn phát ở cộng đường phủ và các chùa miếu xứ ấy là 75 đôi"...
Ở Quảng Nam có hai làng làm nghề dệt chiếu nổi tiếng. Ngoài làng Cẩm Nê còn có làng Bàn Thạch. Nhưng làng nào có nghề dệt chiếu trước thì cho đến nay cũng chưa ai rõ. Nhưng về nguồn gốc nghề chiếu ở vùng này, khi đến Cẩm Nê gặp các cụ cao tuổi hỏi chuyện, thì các cụ có kể lại rằng: Câu chuyện truyền miệng từ xa xưa cho tới đời các cụ thì nghe chiếu của vùng này gốc tích từ vùng Nga Sơn Thanh Hóa đưa vào.
Nhân dân Cẩm Nê ngoài nghề dệt chiếu cũng có trồng lúa. Nhưng nguồn sống chính là nghề chiếu vì làng ít ruộng đất. Có điều lạ nữa là quanh cận vùng Cẩm Nê không có chỗ nào trồng cây đay và lác (cói) mà lại cỏ nghề dệt chiếu nổi tiếng và phát đạt. Muốn có nguyên vật liệu để dệt chiếu như đay, lác phái đi đến các vùng xa trong tỉnh mua về sử dụng, Cẩm Nê dệt nhiều loại chiếu, khổ rộng, khổ hẹp, dệt chiếu trơn và dệt chiếu hoa. Chiếu trơn là loại chiếu để nguyên sợi màu trắng không nhuộm màu. Chiếu trơn dệt loại lác dài không chắp, sợi nho bán đắt tiều hơn loại dệt lác chắp, dệt hai sợi lác ngắn tiếp nối nhau. Loại chiêu trơn trắng này dùng loại lác phơi khô vừa phải, khi khô còn ưng màu xanh, đem vào dệt. Chiếu dệt xong đem phơi nắng, vừa để cho lá chiếu trăng sáng bóng, vừa cho khô giòn những đầu thừa thòi ra trên mặt lá chiếu của sợi lác, sợi đay, để dùng dao sắc phạt cho đứt hết.
Loại chiếu hoa ở Cẩm Nê không phải dệt chiếu trắng xong mới dùng khuôn in hoa lên trên nền như một số vùng khác mà phải chọn sợi lác về nhuộm phẩm, màu sắc tuỳ theo người chủ. Màu đỏ, màu xanh, màu lục, màu vàng,... Phẩm nấu lên và nhúng sợi lác vào, nhúng từng nạm một và đem phơi. Một nạm lác có thể nhuộm một hoặc hai ba lần tuỳ màu phẩm và độ pha chế đậm nhạt. Những sợi lác màu sau khi phơi khô được đem dệt chiếu hoa. Dệt chiếu hoa nhiều công phu. Ngoài việc chọn và nhuộm sợi lác công phu còn phải dùng sợi đay mắc canh cửi thật khéo léo. Mắc cửi đơn hay kép, mặt cửi chạm khô (go) dệt sẽ điều khiển khổ cho nổi lên những hình hoa văn trên mặt chiếu. Công phu nữa là người cầm khô dệt ngồi trêu và giữa mặt cửi đay. Với sự sắp xếp hình dáng hoa văn và bông hoa hoặc chữ nghĩa (như chữ Thọ, chữ Song Hỷ) trong đầu, khi ngồi vào khung dệt, tay cầm khô dệt đồng thời các ngón tay phải điều khiển các sợi đanh đay hoặc nâng lên đè xuống, hoặc cải ba cải hai để khi con thoi đưa sợi lác vào cho ăn khớp tạo nên hoa trên mặt chiếu. Có thể nói người cầm cái khố dệt chiếu đồng thời là một họa sĩ trang trí trên mặt chiếu. Không phải bằng bút lông mà là bằng đôi tay điều khiển cái khô và mũi thoi của mình. Thường thường trên một chiếc chiếu hoa. ở giữa là chữ Thọ. dùng trải ở đình làng, các phản nhà lớn... hoặc chữ Song Hỷ nếu dệt cho đám cưới... Còn ở bốn góc thì là tứ linh hoặc bốn hoa văn lớn, bốn góc chung quanh có hoa văn trang trí nhiều kiểu, nẹp ngoài hai đường kẻ hoặc đỏ hoặc xanh, trông rất trang nhã hài hoà. Chiếu hoa dệt lát nhuộm sần. hoa văn nổi cả hai mặt chiếu, một mặt chính một mặt phụ chứ không như chiếu in hoa chi có hoa ở một mặt trên.
Một công phu của nghề dệt chiếu ở đây nữa là chọn cây để làm khố (go) và thoi dệt. Phải chọn loại cây nào thật thẳng, nhẹ và bền... Vùng Cẩm Nê, người ta thường dùng cây cau già để làm go và thoi dệt.
Hai người, một người giữ khổ, một người cầm thoi, dệt liên tục trong mười tiếng đồng hồ dược một đôi rưữi hoặc hai đôi chiếu, tùy loại đó là chiếu hoa hay chiếu trơn, khổ rộng hay khổ hẹp. Chiếu dệt xong đem trãi khắp sân: khắp vườn, phơi để cho chiếu nguội và hoàn tất một phần việc cuối cùng: ghim các đầu dây đay để cho các sợi lác hai đầu chiếu khỏi bung ra. Công việc này cũng phải khéo tay và có cặp mắt mỹ thuật, không thì chiếc chiếu sẽ lệch.
Ngoài những loại chiếu người ta đặt dệt hoặc chiếu thường để bán quanh vùng, trong làng có một số người mua sỉ chiếu để dồn lại và đóng gói từng bó mười đôi một, thuê ghe bầu hoặc tàu hỏa chở ra vùng Thừa Thiên. Quảng Trị bán. Nếu thị trường Ọuảng Trị ưa thích chiếu Cẩm Nê trơn, thì thị trường Thừa Thiên, nhất là Huế lại thích dùng chiếu hoa có chữ Thọ.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng chiếu Cẩm Nê cũng bao phen lận đận với nghề. Tuy nhiên, đến nay, nhờ những đôi bàn tay khéo léo, đức tính cần cù và sự sáng tạo của người dân Hòa Tiến, làng chiếu Cẩm Nê vẫn ngày một phát triển và sản phẩm chiếu cẩm Nê vẫn là một trong những sản phẩm được người dân miền Trung nói riêng, nhân dân cả nước nói chung rất ưa chuộng, tin dùng.
#
Trình bày hiệp định pa ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam năm 1973. M.n giúp mình với ạ Mình đang cần gấp lắm ạ.
Hiệp định Paris về Việt Nam hoặc hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Về mặt công khai thì đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản Hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố 10 điểm ngày 8 tháng 5 năm 1969 của phái đoàn Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Trong quá trình đàm phán, Hoa Kỳ gần như phớt lờ ý kiến của đoàn Việt Nam Cộng hòa và tự sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khi phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam lại luôn có sự phân công, phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, liên tục thảo luận với nhau trước khi đưa ra quyết sách. Do vậy, sau khi điều khoản Hiệp định được thống nhất giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ thì đoàn Việt Nam Cộng hòa lại từ chối ký vì có những điều khoản bất lợi cho họ. Nhưng Việt Nam Cộng hòa chỉ phản đối được vài ngày, bởi sau đó Hoa Kỳ đã đe dọa và buộc đoàn này phải ký Hiệp định.
Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, hai nhân vật chủ chốt trong cuộc đàm phán, đã được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1973, nhưng Lê Đức Thọ đã từ chối không nhận giải này với lý do hòa bình vẫn chưa lập lại tại Việt Nam. Còn ông Kissinger yêu cầu đại sứ Mỹ tại Na Uy thay mặt mình nhận giải. Ông Lê Đức Thọ cũng cho rằng việc nhận giải sẽ là một sự đánh đồng giữa kẻ xâm lược (Hoa Kỳ) với người bị xâm lược (nhân dân Việt Nam) và sẽ chỉ nhận giải khi giải đó chỉ được trao cho mình ông do giải Nobel hòa bình phải được trao cho đại diện của bên kiến tạo hòa bình (nhân dân Việt Nam).
Em hãy tìm hiểu về truyền thống tốt đẹp của một gia đình, dòng họ ở Việt Nam. Qua nội dung đã tìm hiểu, em học hỏi được điều gì từ truyền thống của gia đình, dòng họ đó.
Mọi người làm nhanh hộ mình nhé. Mình đang rất gấp. Cảm ơn!
truyền thống hiếu học của gia đình xxx. Học hỏi đc sự chăm chỉ và sự cố gắng