Viết bài văn trình bày cảm nhận về bi kịch của nàng Vũ Nương được thể hiện qua đoạn trích: " Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc...và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ "
từ đoạn trích đoạn rồi nàng tắm gội chay .... xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ,hãy viết 1 đoạn văn tổng- phân - hợp khoảng 12 câu để làm rõ sự ''bạc mênh'' của nhân vật Vũ Nương trong đó có 1 câu bị động và 1 phép nối ( gạch chân )
“Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về đến nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành: - Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà - tilde d tilde a mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đứa con ngây thơ nói: - hat o hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.”Tìm lời dẫn trong đoạn trích trên? Cho biết đó là lời nói hay ý nghĩ được dẫn? Chuyển lời dẫn trực tiếp trên thành lời dẫn gián tiếp.
“Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ , rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc. Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.”
Câu 1 (1 đ): Đó là truyện truyền kì nào? Của ai? Hãy chuyển lời thoại khi Trương Sinh dỗ dành con sang cách dẫn gián tiếp.
Câu 3 (1.0đ): Câu nói của đứa con “- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.” gợi nhắc đến chi tiết nào trong truyện? Vì sao có thể nói, nếu không có chi tiết ấy thì cốt truyện không phát triển được?
Câu 1: - Đó là truyện truyền kì: Người con gái Nam Xương
- Của: Nguyễn Dữ
- Chuyển lời thoại khi Trương Sinh dỗ dành con sang cách dẫn gián tiếp: Sinh dỗ dành nó đừng khóc, vì chàng về, bà mất, lòng chàng buồn khổ lắm rồi.
Câu 3: - Câu nói của đứa con “- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.” gợi nhắc đến chi tiết cái bóng trong truyện
- Có thể nói, nếu không có chi tiết ấy thì cốt truyện không phát triển được: Bởi cái bóng chính là đầu mối câu chuyện, là mối oan tình của Vũ Nương, làm nên sự kịch tính cho truyện
Viết một bài văn nêu cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương qua đoạn trích sau :'' Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói.......nhưng việc trót đã qua rồi''
Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận người phụ nữ vô cùng nhỏ bé, bọt bèo. Không chỉ nhỏ bé về thân phận mà còn chịu nhiều bất công, chèn ép của định kiến xã hội phong kiến đương thời. Viết về đề tài này, Nguyễn Dữ trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã lột tả sâu sắc được nỗi bất hạnh mang tính bi kịch ấy của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Bi kịch của Vũ Nương trước hết có ngọn nguồn từ những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Vì chiến tranh mà con phải xa cha, vợ cách biệt chồng. Mọi hiểu lầm dẫn đến bi kịch sau này của Vũ Nương đều bắt nguồn từ đây. Đời làm vợ được sống bên chồng của Vũ Nương thật ngắn ngủi: “sum họp chưa thỏa …. đã chia phôi vì động việc lửa binh”. Trương Sinh ra trận, nàng phải sống trong cảnh “vợ trẻ xa chồng”, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”…
Ở nhà, nàng vừa khắc khoải nhớ thương, vừa lo làm lụng sớm khuya nuôi con, nuôi mẹ. Gánh nặng gia đình bao nhiêu gian nan, vất vả trút cả lên vai. Mẹ già yếu, ốm đau rồi mất. Con thơ bé dại. Vũ Nương một thân một mình chẳng ai đỡ đần sẻ chia trăm công nghìn việc.
Trong xã hội nam quyền mang tính chất gia trưởng của xã hội phong kiến xưa đã dung túng, tiếp tay cho hành động tăm tối, mù quáng của Trương Sinh; cho Trương Sinh được quyền kết tội vợ mà không cần giải thích lí do, mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi, dồn đẩy vợ đến chỗ phải quyên sinh mà vẫn vô can.
Sau ba năm chờ đợi, Trương Sinh trở về, nhưng oái oăm thay, lúc chàng Trương trở về cũng là lúc Vũ Nương phải vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Trớ trêu hơn, cái bóng biểu tượng của tình vợ chồng gắn bó, để nguôi nỗi nhớ cha của con, nhớ chồng của vợ. Vậy mà Trương Sinh lại hồ đồ, đa nghi, một mực khẳng định đó là bằng chứng hư hỏng của vợ.
Trương Sinh nghe lời con thơ về người cha bí ẩn “đêm nào cũng đến” thì từ chỗ nghi ngờ chuyển sang khẳng định “đinh ninh là vợ hư”. Còn gì đau đớn hơn, còn gì đau đớn bằng khi chính người chồng mình rất mực yêu thương nghi ngờ, ruồng rẫy. Vũ Nương bị kết tội thất tiết mà không được giải thích lí do, oan ức mà không thể thanh minh.
Trương Sinh đối với nàng ngày càng lạnh lùng, tàn nhẫn: mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi. Bị bôi nhọ danh dự, bị đày đọa tinh thần, bị chà đạp thể xác, cuối cùng không còn đường nào khác, bị tước đoạt quyền sống, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết.
Không thể minh chứng sự trong sạch của bản thân, quá tuyệt vọng, Vũ Nương đã tìm đến dòng Hoàng Giang để rửa sạch mọi oan khuất: “thần sông có linh, xin ngài chứng giám”.
Bi kịch của Vũ Nương còn được thể hiện ở chi tiết kì ảo cuối truyện. Dù được Linh Phi cứu giúp, nhờ Phan Lang mà Vũ Nương được về gặp chồng một lần trên bến Hoàng Giang nhưng nàng cũng chỉ có thể hiện về và nói vọng vào từ giữa dòng sông những lời nghẹn ngào, chua xót: “Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Ước ao trở về mà chẳng thể trở về, khát khao hạnh phúc mà không thể nào có được hạnh phúc - Đó phải chăng là bi kịch đau đớn nhất của Vũ Nương, cũng là đau đớn nhất của kiếp người?
Như vậy, Vũ Nương là một người phụ nữ có nhiều vẻ đẹp đáng quý nhưng cuộc đời khổ đau, bất hạnh. Phẩm giá của nàng là vẻ đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Còn cuộc đời nàng trớ trêu, bi thảm lại là số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua tác phẩm, Nguyễn Dữ thể hiện được một tinh thần nhân đạo sâu sắc, lên án thói ghen tuông mù quáng, chiến tranh phi nghĩa và chế độ nam quyền. Kêu cứu cho quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
Đọc đoạn trích: Kë bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, » điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng dám. Thiếp nếu đọan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chống dối con, dưới xin làm mồi cho các tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Ngữ văn 9- tập 1) Câu 1: Đoạn trích trên trích từ văn bản nào? Tác giả là ai? Câu 2: Đoạn trích là lời nói của ai? trong hoàn cảnh nào? Câu 3: Viết đoạn văn diễn dịch (10- 15 câu) trình bày cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong văn bản trên. Đoạn văn có dung 01 phép liên kết (Xác định và chú thích)
Đọc đoạn tríchsau:" Kẻ bạc mệnh này ....,và xin chịu khắp mỏi người phỉ nhổ"
Hãy viết một đoạn văn diễn dịch(khoảng 12-15 câu)trình bày suy nghĩ của em về nhân vật "Kẻ bạc mệnh" trong văn bản có đoạn trích trên. trong đó có sử dụng câu phép thế để liên kết ( gạch chân các từ ngữ dùng làm phép thế )
Đọc đoạn tríchsau:" Kẻ bạc mệnh này ....,và xin chịu khắp mỏi người phỉ nhổ" Hãy viết một đoạn văn diễn dịch(khoảng 12-15 câu)trình bày suy nghĩ của em về nhân vật "Kẻ bạc mệnh" trong văn bản có đoạn trích trên. trong đó có sử dụng câu phép thế để liên kết ( gạch chân các từ ngữ dùng làm phép thế )
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi từ câu 11, câu 12:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngày chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
- Lời nói của Vũ Nương chứng tỏ điều gì về nhân vật này?
Lời nói của Vũ Nương chứng tỏ nàng là người ngay thẳng, trong sạch.
- Lời than của nàng trước trời cao, sông thẳm là sự minh chứng cho tấm lòng trinh bạch, nàng muốn được thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất cũng như ghi nhận đức hạnh của nàng.
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi từ câu 11, câu 12:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngày chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
- Nguyên nhân nào dẫn tới cái chết của Vũ Nương?
Nguyên nhân dẫn tới cái chết của Vũ Nương
- Nguyên nhân trực tiếp: lời nói ngây thơ của đứa con (bé Đản), bé Đản không chịu nhận Trương Sinh là cha.
- Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do người chồng tính tình đa nghi, hay ghen, gia trưởng.
+ Cách cư xử nóng nảy, hồ đồ, phũ phàng của Trương Sinh.
+ Chiến tranh phi nghĩa nổ ra, gây ra sinh li từ biệt.
+ Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, lời nói của người phụ nữ không được coi trọng.